In Memoriam

Sơ Lược Tiểu Sử Ban Vận Động

Thành Lập QGNT Cuộc

Ban Giám Hiệu QGNT Saigon

Lịch Trình Thành Lập QGNT

Trường Trung Học Kỹ Thuật

Góc Thầy Cô

Khu Học Sinh

QGNT 1975-1992

QGNT 1975-2003

Trường QGNT Huế

Trường QGNT Đà Nẵng

Trường QGNT Biên Hoà

Trường QGNT Cần Thơ

Các Ban Đại Diện Học Sinh

Các Hoạt Động cuả Gia Đình QGNT

 

 

Cover designed by Ninh Quốc Bảo 73

 

............ diễn tả 50 năm, những mảnh đời QGNT bằng trang sách đă lật sang, một trang sách có cánh hồng héo úa, ấp ủ giữa rêu phong, nhăm nhúm - là những kỷ niệm, những niềm thương mến bị khỏa lấp trong những nhọc nhằn, bôn ba.
    Sau trang sách ấy là một mảnh trời yêu dấu, có những cánh chim, một ánh mây của một thời mơ mộng...... Khoảng thời gian 1963 - 2013 đầy biến động và đổi thay được viết bằng những mầu chuyển đỏ, vàng.

 

 

 

Sơ Lược Tiểu Sử

Ủy Ban Vận Động Xây Cất Trường QGNT

 

Trích thư của Ông Đinh Văn Khai gởi Bác Sỹ Trương Khuê Quan

 

Montreal ngày 4 tháng 5 năm 1992

Anh Trương Khuê Quan thương mến,

Tiếp theo cuộc điện đàm hôm qua, theo thơ này, tôi gởi kèm theo phóng ảnh thơ ngày 27 tháng 4 năm 1992 mà tôi đã gởi cho anh nơi địa chỉ ở Hollande. Ủy Ban Vận Động xây cất Quốc Gia Nghĩa Tử lúc ấy, năm 1962, gồm những anh dưới đây:

 

1.       Anh Trương Văn Chôm, Khoa trưởng Dược khoa: Trưởng ban, anh Chôm sang Pháp nên tôi mời ông Nguyễn văn Hoanh, Chủ tịch Hội Đồng Đô Thành thay thế Trưởng Ban.

2.       Phó Trưởng Ban kiêm Tổng Thư Ký : Đinh Văn Khai, Chủ nhiệm Nhật báo Tiếng Chuông; có hai ký giả phụ giúp là Nguyễn Ang Ca và Phong Đạm. Trụ sở Ủy Ban Vận Động Xây Cất QGNT đặt tại nhà tôi số 107 Pasteur, sau dời lại 92-94 Gia Long, tòa soạn của nhựt báo Tiếng Chuông.

3.       Anh La Thành Nghệ, Dược Sỹ : Thủ Quỹ

4.       Anh Trương Đức Nguyên, Kiến Trúc Sư vẽ đồ án không nhận tiền thù lao.

5.       Anh Trần Ngọc Trình, Thầu Khoán, xây cất hứa không lấy lời.

 

Những hội viên do tôi mời : Bà Bút Trà, chủ nhiệm nhựt báo Sài gòn Mới; chị Nguyễn Thị Hai, dược sỹ; anh Trương văn Tố, dân biểu; anh Võ văn Ứng, thương gia, (Bầu Ứng thể thao).

 

Mỗi vị trong UBXC/QGNT, UBVĐ/XC/QGNT cũng như các hội viên đều đóng góp mỗi người hai trăm ngàn đồng (200,000 đồng) để giúp Cơ Quan Văn Hoá phước thiện này. Riêng anh Nguyễn Cao Thăng, dược sỹ, chủ hãng thuốc tây OVP : Office Pharmacetique Vietnamien có giúp năm chục ngàn đồng 50,000 đồng. Ông Châu ngọc Thôi, Đổng Lý Văn Phòng Bộ Quốc Phòng mà Bộ Trưởng là Ông Nguyễn Đình Thuần, đại diện Bộ Quốc Phòng, cũng có công trong UBVĐXC/QGNT.

 

Hiện giờ những vị trong Ủy Ban Vận Động xây cất Quốc Gia Nghĩa Tử và hội viên còn lại là những anh dưới đây:

Các anh: Trần Ngọc Trình, hiện ở Pháp

Đinh văn Khai, hiện ở Montreal, Quebec, Canada

La Thành Nghệ, hiện ở California, Hoa Kỳ

Trương Đức Nguyên, hiện ở Connecticut, Hoa Kỳ

và chị Nguyễn thị Hai, hiện ở California, Hoa Kỳ

Nhưng những người có công nhiều nhất là Bác sỹ TT và anh.

 

Tiện đây, tôi góp ý cùng anh: Nhân dịp Đại Hội QGNT đầu tháng 6/1992 tới đây, anh vui lòng nhắc đến tất cả các anh chị đã góp công vào việc xây cất Quốc Gia Nghĩa Tử cho các cựu Giáo sư và Nam Nữ Sinh Viên QGNT hải ngoại được biết.

Thành thật chúc Đại Hội Quốc Gia Nghĩa Tử thành công mỹ mãn.

Cuối thư, chúc anh chị luôn được sức khỏe dồi dào.

Đinh văn Khai

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Viện Giáo Dục

Quốc Gia Nghĩa Tử

 

Tổ Chức Hành Chánh

 Viện trưởng: Bác sỹ Trương Khuê Quan

 

Phụ tá hành chánh: Trung tá Bùi Trọng Chi

 

Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Sàigòn

 Danh sách Cựu Hiệu trưởng:

 

1963 - 1964 :

Thầy Đỗ Trọng Huề

 

1964 - 1965 :

Thầy Bửu Trí

 

1965 - 1966 :

Thầy Phùng Ngọc Cảnh

 

1966 - 1967:

Y sỹ Trương Khuê Quan

 

1967 - 1969 :

Thầy Đặng Trần Dư

 

1969 - 1972 :

Thầy Hoàng Xuân Thiệu

 

1972 - 1975 :

Thầy Phạm Thanh Liêm

 

 

 

 

Ban Giám Hiệu Trường Quốc Gia Nghĩa Tử  Saigon 1963 - 1975   
 
PHỔ THÔNG

Niên khóa

Hiệu Trưởng

Giám Học

Tổng Giám Thị

Hiệu Đoàn Trưởng

1963-1964 Đỗ Trọng Huề Trần văn Bá Trần Văn Mười Chưa có
1964-1965 Bửu Trí Lâm Hữu Bàng Trần Văn Mười Trần Ngọc Hồ
1965-1966 Phùng Ngọc Cảnh Lâm Hữu Bàng Nguyễn văn Ḱnh Lê Đức Khanh
1966-1967 Trương Khuê Quan (kiêm nhiệm) Lâm Hữu Bàng Nguyễn văn Ḱnh Lê Quan Tấn
1967-1968 Đặng Trần Dư Phạm Đăng Châu Nguyễn văn Ḱnh Lê Quan Tấn
1968-1969 Đặng Trần Dư Phạm Đăng Châu Nguyễn văn Ḱnh Trần Quốc Giám
1969-1970 Hoàng Xuân Thiệu Trần Ngọc Hồ Nguyễn Sơn Huỳnh Văn Ân
1970-1971 Hoàng Xuân Thiệu Trần Ngọc Hồ Nguyễn Sơn Huỳnh Văn Ân
1971-1972 Hoàng Xuân Thiệu Trần Ngọc Hồ Nguyễn Sơn Huỳnh Văn Ân
1972-1973 Phạm Thanh Liêm Huỳnh Văn Ân Nguyễn Sơn Phan Văn B́nh
1973-1974 Phạm Thanh Liêm Huỳnh Văn Ân Nguyễn Sơn Phan Văn B́nh
1974-1975 Phạm Thanh Liêm Hồ Công Trí Nguyễn Sơn Phan Văn B́nh
       
TỔNG HỢP

Niên khóa

Hiệu Trưởng

Giám Học

Tổng Giám Thị

Hiệu Đoàn Trưởng

1972-1973 Trần Ngọc Hồ   Hoàng Thị Lộc  Nguyễn Đức Quảng
1973-1974 Trần Ngọc Hồ   Hoàng Thị Lộc  Nguyễn Đức Quảng
1974-1975 Trần Ngọc Hồ   Hoàng Thị Lộc  Nguyễn Đức Quảng
       
KỸ THUẬT

Niên khóa

Hiệu Trưởng

Giám Học

Tổng Giám Thị

Hiệu Đoàn Trưởng

1966-1967 Nguyễn Hữu Thông Nguyễn Hàn Tý Lê Văn Út Huỳnh Thanh Hải
1967-1968 Nguyễn Hữu Thông Huỳnh Hữu Tâm Huỳnh văn Lâu Huỳnh Thanh Hải
1968-1969 Nguyễn Hữu Thông Huỳnh Hữu Tâm Huỳnh văn Lâu Huỳnh Thanh Hải
1969-1970 Phan văn Cự Huỳnh Hữu Tâm Huỳnh văn Lâu Huỳnh Thanh Hải
1970-1971 Đặng Trần Dư Huỳnh Hữu Tâm Huỳnh văn Lâu Huỳnh Thanh Hải
1971-1972 Đặng Trần Dư Huỳnh Hữu Tâm Bùi văn Đắc Huỳnh Sơn Cương
1972-1973 Đặng Trần Dư Đỗ Đại Thanh Vân Bùi văn Đắc Huỳnh Sơn Cương
1973-1974 Đặng Trần Dư Đỗ Đại Thanh Vân Bùi văn Đắc Huỳnh Sơn Cương
1974-1975 Đặng Trần Dư Trần Khắc Lượng Bùi văn Đắc Huỳnh Sơn Cương
         
       

 

Thành Lập Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc

Hắc Bảo Đăng

Luật số 3/62 qui định sự liên đới quốc gia tương trợ các cựu chiến sĩ và cô nhi quả phụ tử sĩ:

ĐIỀU THỨ 17: -- Quốc Gia thừa nhận là nghĩa tử các trẻ vị thành niên, dưới 18 tuổi, mà cha hoặc mẹ là chiến sĩ đă bỏ ḿnh v́ chính nghĩa quốc gia, hoặc đă chết v́ chiến thương.

ĐIỀU THỨ 19: -- Các quốc gia nghĩa tử, sẽ được nuôi nấng dậy dỗ, trông nom săn sóc hay trợ giúp cho đến khi đủ 18 tuổi.

Để cụ thể hóa sự liên đớiu quốc gia tương trợ các chiến sĩ, cựu chiến sĩ và quả phụ tử sĩ, cùng các con của họ để giúp chúng có điều kiện trở thành những cán bộ ưu tú của Quốc giạ một trường Trung học nội trú đầu tiên của Quốc gia nghĩa tử cuộc đă được xây dựng xong trên khu đất rộng 5 mẫu, tại đường Vơ-Tánh, Tân-Sơn-Ḥa - Gia Định.

Đúng theo tinh thần đạo luật 3/62, Mục thứ năm, nói về Tổ chức Quốc gia Nghĩa tử cuộc, cơ quan này đă được thành lập thuộc Bộ Quốc pḥng, có Bộ Quốc gia Giáo dục trợ giúp về vấn đề giáo dục.

Ủy ban vận động xây cất trường sở gồm có quư ông: Trưởng ban: Trương-văn-Chôm, Khoa trưởng Dược khoa Đại học đường; Phó Trưởng ban: Nguyễn-văn-Hoanh, Chủ-tịch Hội-đồng Đô thành; Trần-ngọc-Tŕnh, Hội trưởng hội Bảo trợ gia đ́nh tiết nghĩa; Thư kư: Đinh-văn-Khai, Chủ nhiệm nhật báo Tiếng Chuông; Thủ quỹ: La-thành-Nghệ, Dược sư; Kiểm soát: Vơ-văn-Ứng, đại diện nhà thuốc Vơ-văn-Vân; Nguyễn-văn-Phước, Giám đốc hăng Phước Mỹ; Cố vấn: Thiếu tu8ớng Trần -tử -Oai, Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lư; Trương-khuê-Quan, Y sĩ Trung-tá, Giám đốc Nha Xă hội Quân đội Việt-Nam Cộng-Ḥa; Nguyễn-đ́nh-Hưng, Đổng-lư văn pḥng Bộ Quốc gia Giáo dục; Bác sĩ Bùi-kiến-Tín; Kiến-trúc-sư Trương-đức-Nguyên.

Với tiền đóng góp của một số nhà từ thiện và Ngân sách của Bộ Quốc pḥng, công cuộc để xây dựng trường Trung học đầu tiên của Q.G.N.T.C đă hoàn thành đợt đầu theo đồ án của K.T.S Trương-đức-Nguyên, phí tổn gần 9 triệu đồng.


Hai ngôi nhà 2 từng lầu song hành với 30 lớp học đă xây cất xong, cùng với khu văn pḥng.

Trên 3.000 học sinh đă có thể có chỗ học vào niên học tới.
Khu dành cho học sinh (1.200) nội trú thuộc chương tŕnh công tác đợt ỊI Khu này gồm một ngôi nhà 2 từng lầudài 125 m dài gồm 12 pḥng ngủ, phí tổn lối 8 triệu rưỡi đồng.


Theo với nhà ngủ ấy, sẽ có quán cơm, nhà bếp và phụ thuộc, bệnh xá và nhân viên, nhà gác cùng khu thể thao, sân chơi.

Theo dự thảo Nội quy của nhà trường th́ ngoài mục đích xă hội đă nêu trên, ngoài phần giáo dục căn bản, nhà trường sẽ áp dụng phương pháp trắc nghiệm tâm lư để t́m hiểu khả năng của các con chiến sĩ, giúp chúng phát huy đầy đủ những khả năng ấy, nhằm mục đích giúp chúng chọn lấy một nghề thích ứng với tài năng riêng: binh nghiệp, nghề chuyên môn: Bác sĩ, Kỹ sư, Giáo sư v.v... sau khi đă theo học hết ban Trung học và đậu cấp bằng Tú tài.

Cũng theo dự thảo ấy, các học viên Nghĩa tử Quốc gia sẽ được miễn học phí và không phải trả một phí khoản nào về sự ăn ở tại trường. Nếu đủ 18 tuổi mà Nghĩa tử Quốc gia c̣n đương học hành giở dang, th́ theo đề nghị của trường, các học viên có thể xin gia hạn cấp dưỡng để theo học đến thành tài.


Như vậy, Q.G.N.T.C thật là một công cuộc bác ái vô cùng hữu ích cho xứ sở.
H. B. Đ.

 

 

Giới Thiệu :

Viện Giáo Dục Quốc Gia Nghĩa Tử (QGNT) được thành lập vào tháng 9 năm 1963 tại Sài G̣n nhằm cung ứng nơi ăn ở và học hành cho con em các tử sĩ , thương phế binh của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa .Ngôi trường này được thiết kế theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ và được coi là một trong những cơ sở giáo dục khang trang, tân tiến nhất bấy giờ .

Đây là một chương tŕnh của chính phủ để tỏ ḷng tri ân của quốc gia đối với những người đă cống hiến xương máu hoăc hy sinh cho tổ quốc . Vào thời gian đó, đa số các gia đ́nh thương binh tử sĩ không biết đến chương tŕnh này, v́ thế, niên học đầu 1963-1964, chỉ có khỏang 500 học sinh ghi danh học tại trường QGNT Saig̣n.

Thời gian đầu, Viện chỉ có một chương tŕnh giáo dục phổ thông . Đến năm 1967, trườngKỹ Thuật được thành lập, và sang năm 1968, chương tŕnh giáo dục tổng hợop cũng được sáng lâp. Dần dần, khi số học sinh gia tăng , chính phủ tiến hành xây dựng các trường QGNT tại Huế, Đà Nẵng , Cần Thơ và Biên Ḥa ... để giúp đỡ các gia đ́nh trong khu vực có điều kiện học hành Sau 12 năm họat động, Viện Giáo Dục QGNT đă có 5 cơ sở trên ṭan quốc, với gần 400 giáo sư và trên 5000 học sinh từ tiểu học đến trung hoc.

Viện đă cung cấp hàng trăm học bổng từ nhiều quốc gia trên thế giới cho học sinh QGNT đi du học sau khi tốt nghiêp.

 

 

 

 

TẢi LiỆU LIÊN QUAN QGNT bằng ANH NGỮ:

 

From the Height of a Political Career to Exile
From 1969 to 1974, General Đồng served military personnel in a different capacity, Minister of War Veterans (equivalent to the US Secretary of Veterans Affairs). During this time, he worked with West Germany to get financial and medical support for disabled veterans. His relationship with German officials in Oberhausen resulted in military orphans or children of disabled veterans going there to further their education. Most of the students came from the seven ministry-sponsored Quốc Gia Nghĩa Tử schools. Minister Đồng's personal ties with Australian, Taiwanese and South Korean officials benefited Vietnamese veterans. During his tenure, Australia, Taiwan and South Korea provided much needed funding and training to disabled veterans at vocational facilities. His friendship with an American adviser Shelby Robert and his wife Miriam benefited the ministry as well. In April 1973, the Robert and the Gettysburg Presbyterian Church donated several wheelchairs and provided funding to train a Vietnamese doctor from the ministry. Later that year, the minister traveled to the United States and several western European countries to ask for financial assistance. The trip yielded good results: several US colleges provided the ministry with funding for the its prosthetic center. In particular, Ohio State University sent professors to train teachers and to teach QGNT's students in three special courses: typing, accounting and home economics.


Quốc Gia Nghĩa Tử = Ward of the Nation was a brainchild of Lieutenant Colonel Trương Khuê Quan who modeled it after France's "Office des Pupilles de la Nation". This independent agency was formed in October 1963 to provide educational opportunities for war orphans and children of war invalids/disabled veterans. In 1967, the Ministry of War Veterans took over the agency but continued to let it run by an independent management committee. By the end of the Vietnam War, QGNT had seven schools and 4 dormitories with over 200 teachers and an administrative staff close to 300 persons (most of whom were military widows, war disabled veterans and family members of soldiers who had died during the war).

 

 

 

 

 

 

Thăm Thầy Hoàng Xuân Thiệu

 Viện Giáo Dục QGNT : Những Bước Đầu Thành Lập

Cuối tuần qua 31 tháng 7 - 2010 chúng tôi có dịp lên thành phố El Grove nằm về phía nam của thành phố Sacramento, California viếng thăm thày Hoàng Xuân Thiệu, cựu hiệu trưởng trường trung học QGNT và sau đó là Thanh tra cuả Viện Giáo dục QGNT.

Sau những lời hỏi thăm sức khoẻ cuả thày, chúng tôi có xin phỏng vấn thầy về thời gian thầy phục vụ tại Viện QGNT. Sau dây là những ư chính do thầy cho biết.

Toàn bộ cuộc phỏng vấn sẽ dược ghi chép lại đầy đủ và phổ biến sau:

1. Ư tưởng về QGNT có được do bác sỹ Trương Khuê Quan sau khi qua Hoà Lan tham dự một hội nghị về vấn đề giúp đỡ các con em cuả các chiến sỹ đă hy sinh trong các cuộc chiến tranh thế giớị Năm này là năm 1957 và lúc đó bác sỹ Quan là Cục Trưởng Cục Xă Hộị

2. Với ư tưởng này, khi về nước, bác sỹ Quan đă vận động các bạn bè , ân nhân (thày Thiệu gọi là " Nhóm Nhân Sỹ Saigon " đóng góp mỗi người 200 ngàn đồng để xây dựng trường QGNT, kiến trúc sư vẽ đồ án không tính tiền, và các nhà thầu xây cất không tính tiền công.

Về khu đất, trước đó dự định xây tiếp nghiă địa Tây, nhưng sau năm 54 th́ nhu cầu cho nghiă điạ không c̣n, và khu đất được "tă,ng" cho QGNT.

3. Sau khi ngôi trường được xây dựng xong, nhóm nhân sỹ này tặng cho Bộ Quốc Pḥng. (1962-1963)

4. Bộ Quốc pḥng thành lập Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc và bổ nhiệm bác sỹ Quan từ Cục trưởng Cục Xă Hội về làm Cuộc Trưởng QGNT Cuộc và chính thức khánh thành trường trung học QGNT Saig̣n (1963)

5. Tới năm 1967, Bộ Cựu Chiến Binh được thành lập và QGNT Cuộc được bàn giao từ Bộ Quốc Phon`g qua Bộ Cựu Chiến Binh.

Bộ Cựu Chiến Binh đổi lại thành Viện Giáo Dục QGNT, là một trong nhiều Viện trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh. (thí dụ Viện Quốc Gia Phục Hồi .v.v..)

6. Tổng số học sinh cho mỗi niên khóa là khoảng 3500 học sinh, chia ra 65 lớp, 60 lớp ở hai building chính, và 5 lớp tại khuôn viên khu nội trú..

C̣n rất nhiều các chi tiết cũng như những kỷ niệm đáng nhớ cuả thầy và ngôi trường QGNT. Nguyên văn buổi nói chuyện này sẽ được đăng vào Tập Kỷ Yếu dự định  sẽ phát hành vào dịp Lễ Kỷ Niệm 50 Năm QGNT được thành lập, July 6 2013



 


LỊCH TR̀NH THÀNH LẬP CƠ QUAN
QUỐC GIA NGHĨA TỬ VIỆT NAM


Năm 1962, Y Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan là Cục Trưởng Cục Xă Hội Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa. Ông theo lệnh Bộ Quốc Pḥng thực hiện hai chương tŕnh Quân Tiếp Vụ và Trại Gia Binh để giúp đỡ gia đ́nh các quân nhân tại ngũ. Khi việc điều hành hai chương tŕnh này đă tạm ổn định, Cục Xă Hội tŕnh là việc lo cho quân nhân tại ngũ không th́ chưa đủ mà chính phủ c̣n phải nghĩ đến những chiến sĩ đă hy sinh cho chính nghĩa quốc gia nữa. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm chấp thuận ư kiến này và giao cho Bộ Quốc Pḥng nghiên cứu để thực hiện một chương tŕnh tương tự như Office des Pupilles de la Nation của Pháp. Để xúc tiến mau chóng đề nghị đă được sự ưng thuận của thượng cấp và biết rằng Ngân Sách Quốc Gia chưa có ngân khoản nào dành cho chương tŕnh này. Y Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan đă vận động các bạn hữu của ông để đóng góp tài chánh hầu bắt tay vào việc ngay được. Các bạn ông đă vui ḷng hưởng ứng và các vị sau đây đă chung góp mỗi người 200,000 đồng:

Ông Trương Văn Chôm, Khoa Trưởng Đại Học Dược Khoa.
Ông Nguyễn Văn Hoành, Chủ Tịch Hội Đồng Đô Thành.
Ông Đinh Văn Khai, Chủ Nhiệm Nhật báo Tiếng Chuông.
Ông Nguyễn Ang Ca, báo Tiếng Chuông.
Dược Sĩ La Thành Nghệ.
Dược Sĩ Nguyễn Thị Hai.
Dân Biểu Trương Văn Tố.
Bà Bút Trà, Chủ nhiệm báo Sàig̣n Mới.
Ông Vơ Văn Ứng, thương gia.
Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng.

Ngoài ra, Kiến Trúc Sư Trương Đức Nguyên nhận vẽ đồ án không lấy tiền thù lao và ông Trần Ngọc Tŕnh, thầu khoán cũng nhận xây cất không lấy lời.
Cục Xă Hội Quân Đội có nhận xét là nên khởi đầu bằng một ngôi trường và nên lấy danh xưng những con của tử sĩ và phế binh là Quốc Gia Nghĩa Tử (như chữ Pupilles de la Nation của Pháp, tránh chữ "trẻ mồ côi" có thể làm tủi ḷng những trẻ em này). Những đề nghị của Cục Xă Hội đều được chấp thuận và được ông Châu Ngọc Thôi, Đổng Lư Bộ Quốc Pḥng đă giao cho Đại Úy Bùi Trọng Chi, Tham Chánh Văn Pḥng, phụ trách việc nghiên cứu và dự thảo các văn kiện thủ tục giấy tờ thành lập cơ quan đặc biệt này.

Thấy là nếu làm theo Pháp, các Quốc Gia Nghĩa Tử sẽ trở thành gần như những Thiếu Sinh Quân, sẽ khó ḷng làm hài ḷng các gia đ́nh tử sĩ và phế binh, Bộ Quốc Pḥng đề nghị thành lập một Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc, một cơ quan tự trị có hoạt động rộng răi và dễ dàng hơn Trung Tâm Giáo Khoa Quân Đội (điều hành các trường Văn Hóa Quân Đội Sàig̣n, Đà Nẵng, Nha Trang, và Cần Thơ) đặt trực thuộc Cục Xă Hội Quân Đội. Mọi ư kiến đưa ra, khi tŕnh lên đều được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chấp thuận và mọi việc được lập tức khởi sự. Một thửa đất rộng lớn trên đương Chi Lăng, giữa khoảng Lăng Cha Cả và Ngă Tư Bảy Hiền, cánh Nghĩa Địa Pháp, trước Sở Chăn Nuôi, được lựa chọn và nhà thầu khởi công xây cất ngôi trường gồm hai ṭa nhà ba tầng, mỗi ṭa có 15 lớp học, cùng một Văn Pḥng cho Ban Giám Đốc trường, bao quanh một vườn hoa kiểu Nhật Bản. Công việc xúc tiến êm đẹp và đến tháng 8 năm 1963 th́ ngôi trường hoàn thành, đồng thời sắc lệnh thành lập Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc cũng được duyệt kư. Cuối tháng 9, ngôi trường được khánh thành do Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chủ tọa và đó cũng là lễ cuối cùng của ông trước khi bị sát hại trong cuộc đảo chánh 1-1-1963.

Niên học đầu tiên 1963-64 được khai giảng ngay sau những ngày đầu của cuộc đảo chánh. Đại Úy Đỗ Trọng Huề được cử làm Hiệu Trưởng, ông Trần Văn Bá, giáo sư thuộc Bộ Giáo Dục được biệt phái làm Giám Học và Trung Úy Trần Văn Mười làm Tổng Giám Thị.

Bộ Giáo Dục chỉ biệt phái được một số giáo sư (trong số này có 4 nữ giáo sư đầu tiên của trường là các cô Vơ Thị Ngọc Dung, Hồ Thị Ngọc Nữ, Nguyễn Lan Phương và Vơ Kim Sơn), Bộ Quốc Pḥng đă chọn thêm 15 giáo sư bị động viên có phiếu điểm tốt nhất để thuyên chuyển về trường hầu có đủ số giáo sư giảng dạy. Niên học đầu tiên đó, v́ chỉ nhận những em đă có án Quốc Gia Nghĩa Tử nên sĩ số chỉ lên đến khoảng 500 em. Mặc dù c̣n ít học sinh, Đại Úy Bùi Trọng Chi khi đó đang làm Giám Đốc Trung Tâm Giáo Khoa Quân Đội, cũng được cử kiêm nhiệm chức vụ Phụ Tá Hiệu Trưởng và HIệu Đoàn Trưởng để phụ trách thêm về các vấn đề ngoại học đường, đặc biệt là đức dục và thể dục như đă được ấn định trong nguyên tắc điều hành trường. Các nhân viên văn pḥng và giám thị được tuyển chọn trong số các quả phụ tử sĩ, phế binh và gia đ́nh. Đặc biệt, Quốc Gia Nghĩa Tử Trần Phương Mai, có bằng Tú tài toàn phần, đă được tuyển và là nữ giáo sư thứ 5 của trường.

Niên học thứ hai 1964-65, ông Bửu Trí, một giáo sư kỳ cựu của Bộ Giáo Dục, được cử thay thế Đại Úy Đỗ Trọng Huề bận quá nhiều công tác bên Quân Đội. Các gia đ́nh tử sĩ và phế binh nhận thức được việc chăm sóc tốt đẹp tại một ngôi trường thật rộng răi, khang trang nên đă nạp đơn tới tấp tại các ṭa án để xin án Quốc Gia Nghĩa Tử, do đó sĩ số đă tăng thật mau chóng, gấp đôi, gấp ba, chỉ sau một năm hoạt động.

Cuối năm 1965, văn pḥng Cuộc được xây cất xong trong cùng một khuôn viên. Y Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan được cử làm Cuộc Trưởng và Đại Úy Bùi Trọng Chi làm phụ tá. Cuộc gồm có 4 pḥng: Pḥng Hành Chánh, Pḥng Tài Chánh, Pḥng Học Vụ, và Pḥng Nghiên Cứu, mỗi pḥng do một chủ sự đảm trách. Cơ quan Quốc Gia Nghĩa Tử không c̣n giới hạn trong một ngôi trường nữa mà chính thức hoạt động rộng răi như được ấn định trong sắc lệnh thành lập. Pḥng tài chánh bắt đầu lập các sổ trợ cấp Quốc Gia Nghĩa Tử và pḥng nghiên cứu những công tác mở mang cơ quan tại Sàig̣n và trên toàn quốc. Ngân sách tự trị được chấp thuận bởi Hội Đồng Quản Trị gồm các vị đại diện các Bộ Nội Vụ (thay mặt các gia đ́nh những nhân viên dân chính bị sát hại), Bộ Quốc Pḥng (thay mặt các gia đ́nh tử sĩ và phế binh), Bộ Tư Pháp (chuẩn cấp các án QGNT), Bộ Tài Chánh (cung cấp ngân khoản cần thiết), và Bộ Giáo Dục (trợ giúp chương tŕnh học vụ).

Năm 1966, trường kỹ thuật được xây cất xong bên cạnh Văn Pḥng Viện và được hoạt động ngay mặc dù sĩ số hết sức khiêm tốn, với hai lớp sắt và máy nổ. Ngay những năm sau đó, khi nhận biết được sự lợi ích của nghề chuyên môn, số học sinh dần dần tăng lên gấp bội. Cũng năm 1966, khu nội trú được xây cất xong gồm 12 pḥng ngủ rộng lớn (mồi pḥng đủ chỗ cho 80 nội trú sinh) trong một ṭa nhà ba tầng lầu và một nhà ăn có đầy đủ bếp núc và các nhà để nhân viên nhà bếp ở (các nhân viên này đều thuộc gia đ́nh tử sĩ và phế binh, đa số là các quả phụ do Hội Quả Phụ Tử Sĩ giới thiệu vào làm). Nhà ăn được trang trí thêm một sân khấu mỹ lệ để dùng làm pḥng hội những khi có tổ chức lễ tết hoặc phát phần thưởng hàng năm. Khu nội trú cũng hoạt động ngay nhưng v́ ngân sách có hạn nên chỉ có thể nhận các em vào 4 pḥng ngủ ở tầng lầu hai mà thôi. V́ phải hạn chế số nội trú sinh nên chỉ nhận các em gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, sau đó, ưu tiên hai mới dành cho các em trong gia đ́nh đông con và ở xa Sàig̣n.

Năm 1967, Bộ Cựu Chiến Binh được thành lập, đă đổi QGNT Cuộc thành Viện Giáo Dục QGNT đặc trực thuộc Bộ nhưng vẫn giữ nguyên việc điều hành do Hội Đồng Quản Trị chỉ thêm Đại Diện Bộ Cựu Chiến Binh là Chủ Tịch Hội Đồng. Bộ cung cấp các phu8ơng tiện cần thiết, nhất là vấn đề trụ sở và nhân viên, dể Viện mở rộng hoạt động tại các tỉnh khác trên toàn quốc. Pḥng Tài Chánh của Bộ cũng phụ trách việc trả trợ cấp QGNT thay cho Viện để Viện chỉ phải chú trọng đến vấn đề giáo dục các QGNT mà thôi.

Niên học 1967 - 1968 là niên học đầu tiên của trường trung học QGNT Huế với sĩ số khoảng 100 em. Tết Mậu Thân, đầu năm 1968, trường sở bị hư hại hoàn toàn nhưng ngay năm đó trường đă được xây cất lại, đồng thời xây cất luôn một khu nội trú có thể nuôi dưỡng 50 nội trú sinh. Qua năm 1968, Viện mở thêm được trường trung học QGNT Đà Nẵng, sĩ số niên học đầu cũng chỉ được chừng 100 em, nhưng sau đó cũng như cũng như trường ở Huế, số học sinh trường Đà Nẵng cũng tăng dần lên tới 400 em vào niên học 1974 - 1975. Năm 1969, Viện mở thêm được trường tiểu học QGNT Biên Ḥa mà ngay niên học đầu tiên sĩ số đă lên đến khoảng 200 em. V́ các em này đều c̣n nhỏ nên tất cả đều được nuôi dưỡng trong khu nội trú cạnh trường.

Năm 1970, Viện xây thêm được một bịnh xá ngay sát khu nội trú, có một bác sĩ và một nhân viên làm việc hàng ngày vào buổi sáng để chăm sóc sức khỏe cho các QGNT thuộc cả hai trường trung học và kỹ thuật cùng khu nội trú. Viện cũng liên lạc với Bộ Chỉ Huy Công Binh Đại Hàn để giúp nhân công quân đội xây cất một thư viện phía trường kỹ thuật, vật liệu do Viện cung cấp. Trong năn, thư viện được hoàn thành và ngay sau đó được khánh thành do Đệ Nhất Phu Nhân chủ tọa buổi lễ.

Năm 1971, Viện mở thêm được trường trung học QGNT Cần Thơ, trường sở được xây cất do ngân sách của Viện đài thọ, chứ không như các trường Huế, Đà Nẵng và Biên Ḥa đều là những pḥng ốc của quân đội nhượng lại, chỉ cần sửa sang thành những lớp học. Ngay niên học đầu trường Cần Thơ đă có một sỉ số đáng kể, v́ vậy Viện đă dự trù xin ngân khoản để mở rông thêm và xây cất cả một khu nội trú nữa. V́ gặp nhiều khó khăn về tài chánh, công tác xây cất mới c̣n trong giai đoạn sơ khởi đă bị kéo dài và chưa khởi sự được th́ đă bị biến cố 30-4-75 chấm dứt.

Năm 1972, Viện xây thêm được 4 căn nhà dành cho nhân viên cao cấp của Viện gần bịnh xá và xúc tiến việc xây cất một khu nội trú dành cho nam sinh giữa nhà ăn và trường kỹ thuật. Khu này được hoàn thành năm sau gồm một ṭa nhà hai tầng lầu nuôi dưỡng được 100 em.

Với sự giúp đỡ và viện trợ của phái đoàn đại học đường Ohio, Viện tổ chức trường tổng hợp QGNT, dùng từng dưới cùng của khu nội trú nữ sinh gồm 3 lớp chính là lớp đánh máy, kế toán và kinh tế gia đ́nh. Trường chính thức hoạt động kể từ niên học 1973 - 1974, có mở thêm cả mấy lớp theo chương tŕnh trung học Đệ Thất, Đệ Lục. Khu nội trú nữ sinh như vậy là đă được sử dụng hoàn toàn cả 3 tầng lầu, tầng dưới cùng là trường Tổng Hợp, tầng lầu 2 là 4 pḥng ngủ nữ sinh và tầng lầu 3 là pḥng học tối cho nữ sinh nội trú, nhà nguyện cho các em theo Thiên Chúa Giáo và Niệm Phật Đường cho các em theo Phật Giáo.

Nếu không có biến cố 30-4-1975, Viện sẽ mở thêm khu nội trú Cần Thơ và trường trung học QGNT Qui Nhơn. Trường này dự định sẽ xây cất trên khuôn viên của một căn cứ do quân đội nhượng cho.

Tóm lại, sau 12 năm hoạt động Viện đă tổ chức được 7 trường và 4 khu nội trú. Tổng số giáo chức các trường lên đến 200 vị (đa số do Bộ Giáo Dục biệt phái) và trên 200 nhân viên làm việc (đa số là quả phụ, phế binh và gia đ́nh tử sĩ), đă chăm nom, dậy dỗ và nuôi dưỡng được cả mấy chục ngàn QGNT và lam nhẹ gánh nặng cho hàng chục ngàn gia đ́nh của các chiến sĩ đă hy sinh cho Chính Nghĩa Quốc Gia.

Các em là những người không được may mắn trong cuộc chinh chiến dài hơn hai thập niên đă được đền bù sự mất mát của ḿnh bằng một tương lai tươi sáng, chắc chắn sẽ trở thành những con yêu của Quốc Gia, xứng đáng với danh xưng Quốc Gia Nghĩa Tử.

NHUẬN KHÁNH - Bùi Trọng Chi
Nguyên Viện Phó Viện QGNT

Trường Trung Học KỹThuật QGNT

Giáo sư  Đỗ Trọng Hòa

Trường Trung học Kỹ thuật QGNT đựơc ra đời bởi nghị định số : 0615/QP/ND ngáy 30 tháng 11 năm 1965.  Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 vừa được 9 tuổi rưỡi, Vời BA VỊ HIỆU TRƯỞNG như sau :
* Thày Nguyễn Hữu Thông (1965-1969). Từ 1969 đổi về làm Trửơng khoa Tóan Trừơng Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
* Thày Phan Văn Cự (1969-1970). Hiện đang ở San Jose, California USA
* Thày Đặng Trần Dư ( 1970-1975).Hiện ở San Jose, California, USA

CÁC VỊ GIÁM HỌC :
*Thày Huỳnh Hữu Tâm ( Thuyên chuyển đi nơi khác năm 1971)
*Thày Đỗ Đại Thanh Vân

CÁC VỊ TỔNG GIÁM XƯỞNG :
*Thày Bùi Văn Đắc
*Thày Trần Khắc Lượng ( Thế Thày Bùi Văn Đắc)- Thày Lượng đang ở tai Pháp Quốc

CÁC VỊ HIỆU ĐOÀN TRƯỞNG :
* Thày Huỳnh Thanh Hải ( Sau về Xưởng Kỹ Nghệ Họa)
* Thày Huỳnh Sơn Cương

CÁC VỊ TỔNG GÍAM THỊ :
*Thày Huỳnh Văn Lâụ
* Thày Bùi Văn Đắc ( Thay thế Thày Huỳnh Văn Lâu trở về xưởng)

CÁC VỊ GIÁM THỊ :
* Thày . . Liêm - Cô Nguyễn Thị Liêm ( Cô Liêm đang ở Osaka-Japan)

CÁC VỊ NHÂN VIÊN VĂN PH̉NG:
* Ông Nguyễn Văn Thành.
* Ông. . . Đường
* Cô . . Ánh
* Ông . . . & Ông. . .


Trừơng đựơc xây cất trên một diên tích gần 30.000 mét vuông, với một dăy nhà trệt ,kiến trúc theo lối học xửơng, theo kế hoạch dự trù, các pḥng học sẽ được xăy că't thêm về sau.Ta.m thời để đáp ứng cho nhu cầu cấp bách buổi đầu, trường được chia thành 5 học xưởng và 8 pḥng học. Về máy móc trang bị , lúc đầu do các cơ quan Hoa Kỳ chuyển nhượng đươ,c một số ít máy móc chia đều cho các học xưởng. Về sau, do ngân sách tự trị của Viẽ.n Giáo dục QGNT Trường được trang bị dần thêm các loại máy móc , dụng cụ va bàn ghếv. v. . . Riêng xưởng điệ tử vào năm 1970 đă nhận được sự viện trợ của Chính Phủ Ư Đại Lợi , gồm các máy móc ,dụng cụ tối tăn , cộng thêm các tài liẽ. hướng dẫn giảng dậy thật phong phú. Ngoài ra học xưởng Điện tử c̣n đươc tân trang với bàn ghế hoàn toàn mới có máy điều ḥa không khí nữa.


Trường KT-QGNT trực thuộc Viện Giáo dục Quốc Gia Nghĩa Tử (Bộ Cưụ Chiến Binh) về hành chính và tài chính , nhưng về chuyên môn Trường lại lệ thuộc Nha Kỹ Thuật và Chuyẽn Nghiẽ.p Học Vụ ( Bộ Giáo Dục). Ngay trong niên khóa đầu tiên trường đă mở được 2 lớp chính thức theo đúng học tŕnh của Nha Kỹ Thuật va Chuyên Nghiệp Học Vu.. Bên cạnh đó trường c̣n mở thêm các lớp huấn nghệ đoản kỳ, để giúp đỡ các học sinh QGNT muốn sớm có một nghề mưu sinh. Qua qúa tŕnh đào tạo, trường đă cấp bằng tốt nghiệp cho hon 300 học sinh tốt nghiệp các lớp Đoản kỳ bao gồm các ngành như : Cơ khí ô tô - Kỹ nghệ họa - May cắt - Kỹ nghệ gỗ - Kỹ nghệ săt - Điện nhà và Điên tử.
Các học sinh chính thức của trường tới năm 1975 gồm Ban Kỹ Thuật Toán và các Ban Chuyên nghiệp khác , từ lớp 9 tới lớp 12 tổng cộng trên 300 học sinh theo học.

Sau ba mươi mốt năm biến động, tang thương dâu bể, vật đổi sao dời, trí nhớ chỉ c̣n nhớ đươc. một số các chi tiết trên , xin ghi vội ra đây ,hy vọng giúp' các "cựu học sinh KT-QGNT" năm xưa hồi tưởng laị chút ân t́nh" thày tṛ cũ" hay ít "kỷ niệm xưa"với ngôi Trường KT-QGNT dấu yêụ Có ǵ sai sót, mong các em bổ túc thêm và bỏ qua cho nhe!-năm nay vừa sáu mươi rồi- Tiện đây tôi cũng xin bầy tỏ ḷng cám ơn và sư cảm động vô cùng trước sự tiếp đón nồng hậu của các Bạn hữu cũng như của các cựu học sinh KT-QGNT đădành cho tôi trong chuyến "hạnh ngộ " tai California vừa quạ Những t́nh cảm cũng như những kỷ niệm đẹp đó , tôi sẽ trân qúy và mang theo maĩ suốt quăng đờị c̣n laị

- Đỗ Trọng Ḥa - Tokyo - Japan -

DANH SÁCH CÁC

THÀY- CÔ CÁC BỘ MÔN KỸ THUẬT VÀ VĂN HÓA

* Xưởng Kỹ nghệ Gỗ:

Thày Nguyễn Ngọc Anh.


* Xưởng Kỹ nghệ Sắt :

Thày Nguyễn Thế Thọ -

Thày Nguyễn Cao Mỹ.(Thày Mỹ ở USA)-

Thày Vương Thành Phát

* Xưởng Điện Nhà:

Thày Phạm Van Ḥa

( Sau thuyên chuyển về Công Ty điện lực )
Thày Hồ Văn Thành


* Xưởng Cơ Khí Ô Tô :

Thày Hồ Văn Miêng ( Sau thuyên chuyển về Công Ty điện lực )
Thày Vơ Phú Cường
Thày Trịnh Văn Thông


* Xưởng Nữ Công Gia Chánh:

Cơ Triệu Thị Chơi
Cô Nguyễn Thi Xưng Huê
Cô Trầm thi Tuyết.


* Xưởng Điện Tử :

Thày Phan Tấn Chữ.(Tạ thế năm 1978)
Thày Đỗ Trọng Ḥa


* Xưởng Kỹ Nghệ Họa : Thày Huỳnh Thanh Hải
Thày Nguyễn Khoan Hồng (Đang ở SEATLE-USA).
Thày Đỗ Đại Thanh Vân

 

 

DANH SÁCH CÁC

 THÀY CÔ CÁC BỘ MÔN VĂN HÓA :

*Sử Địa Cơng dân :

 Thày Ngô Đức Hải (San Jose- USA)
Thày Nguyễn Khoan Hồng


*Anh Văn

Cô Đỗ Thị Phụng


*Việt Văn

Thày Bùi Dă


*Tóan

Thày Nguyễn Thành Vân
Thày Nguyễn Văn Sự
Thày Nguyễn Phúc Thọ
Thày Nguyễn Văn Định
Thày Nguyễn Chí Thông


*Lư Hóa

Thày Trần Khắc Lượng (Pháp)
Thày Nguyễn Văn Hồng
Cô Nguyễn Thị Ḥa


*Triết

Thày Nguyễn Lộc Thọ


*Pháp Văn

Thày Ninh Thế Việt



Trường QGNT Huế

Trường QGNT Huế cũng như các trường QGNT khác, đều trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh, Viện Giáo Dục Quốc Gia Nghĩa Tử SaiGon.
Lúc bấy giờ là năm1967

Bộ Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh:
Bác Sĩ Nguyễn tấn Hồng

Đổng Lư Văn Pḥng:
Đai Tá Phạm Gia Cầu

Viện Truởng Viện Giáo Duc QGNT:
Y Sĩ Trung Tá Truơng Khuê Quan

Phụ Tá Viện Truởng:
Thiếu Tá Bùi Trọng Chi

Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Huế toa lạc tai"Ngă Tư Anh Danh Thành Nội Huế".Cổng chính của trường ở trên đuờng Đinh Bộ Lĩnh, hiên nay đổi tên thành Đinh Công Tráng,đuờng này đi thẳng ra cửa Thượng Tứ.
Mặt trường nh́n ra đường Bộ Thị,nay đổi là đường Nguyễn Hiệu. Sau lưng trường là đường Mai Thúc Loan,đường này đi thẳng ra cửa Đông Ba. Hông trường giáp Viên Dục Anh.

Năm 1953, đây là khuôn viên trường Thiếu Sinh Quân,sau đó trường Thiếu Sinh Quân dời vào Vũng Tàu. Khuôn Viên này đươc giao cho Đơn vi mũ đỏ Hiến Binh.Sau khi Hiến Binh giải thể, lai được giao cho đơn vi mũ đen Quân Cảnh.
Đơn Vị Quân Cảnh dùng làm văn pḥng và làm Trại gia binh.Tháng 7/1967,khuôn viên này được Quân Cảnh giao cho Bộ Cựu Chiến Binh,để thành lập truờng Quốc Gia Nghĩa Tử Huế. Bộ Cựu Chiến Binh lệnh cho Ty Cựu Chiến Binh ở Huế cho tu sửa, chỉnh trang pḥng ốc các lớp đồng thời thu nhân hoc sinh. Anh Châu Văn Kham,(hiện nay đang sinh sống ở Vũng Tàu),thuôc Ty Cựu Chiến Binh Huế là nguời có công trưc tiếp, cấp tốc chỉnh trang trường ốc.

Tháng 8/1967,Y Sĩ Viện Truởng Truơng Khuê Quan bận công du nước ngoài,Thiếu tá Bùi Trọng Chi,Phụ Tá Viện Trưởng,lệnh cho tôi,Giáo Sư trường QGNT Sài G̣n về làm Hiệu Truởng Trường QGNT Huế, trước mắt là lo t́m mời Giáo Sư và sắp xếp sĩ số học sinh cho các lớp để kịp khai giảng niên khoá đầu tiên (1967-1968) cùng với mùa khai trường các trường trung học Công Lập ở Huế.
Tháng 9/1967 trường QGNT Huế đă chính thức khai giảng niên khoá dầu tiên, cắt băng khánh thành trường là Thiếu Tuớng Hoàng Xuân Lăm, Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật và Đai tá Lê Văn Thân, Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên.Sĩ Số hoc sinh ngày khai trường là 100 em, về sau sĩ số tăng lên 400 em.
Tháng 1/1968, trường được bàn giao cho Hiệu Truởng mới là Giáo Sư Hoàng Hữu Tiếu, nguyên là Chánh Thanh Tra Trung Học thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục, được biệt phái sang Bộ Cựu Chiến Binh.
Trong biến cố Tết Mậu Thân(1968), trường hư nát quá nặng nề, sau trường được xây dựng lại toàn bộ, xây dưng thêm Khu Nội Trú và thu nhận 50 Em vào Nôi Trú Sinh.
Sau đây là danh sách nhân viên đă phục vụ cho trường QGNT Huế, mà tôi được biết (có thể c̣n nhiều Thầy Cô và nhân viên nhà truờng tôi không biết hoặc không nhớ)
Hiệu Trưởng:

Phan Văn Cự:(San Jose)
Hoàng Hữu Tiếu:(Passed away Lục Tỉnh)
Bửu Đôn:( Huế, Sài G̣n)

Nữ Giáo Sư:

Nguyễn Khoa Diệu Tùy(Sài G̣n):Anh-Pháp Văn
Phan Thị Thu Vân:Quốc Văn
Phan Thi Thanh Tâm(Bác Sĩ Texas)
Truơng Thi Đạm Tuyết(Sanjose)
Phan Thi Nhật Lệ(USA)
Truơng Thị Lai:Quốc Văn
Huỳnh Thị Trung:Vạn vật
Nguyễn Thi Lệ Hằng:Thể Dục
Cô Nghê:Sử Địa

Nam Giáo Sư:

Nguyễn Thắng Thưởng(Huế):Hội Họa
Nguyễn Hứa Hàm:Thể Dục
Tạ Ngọc Minh:Anh văn
Lâm Quốc Tuyên(Huế):Quốc Văn
Hoàng Mạnh Quân:Sử Địa
Đinh Tấn Hùng:Toán-Lư Hoá
Phạm Mạc Trường Ly Phương:Nhạc
Đăng Công Toạị:Quốc Văn
Thầy Quế:Toán-Lư Hoá
Thầy Quân:Công Dân

Giám Thi & Nhân Viên:

Nguyễn Văn Huyền:Tổng Giám Thị- Huế
Nguyễn Mê:Phu Tá Giám Thị Nội Trú
Nguyễn Thu:Giám Thị
Bác Tháo:Cai Trường
Bà Thệ:Lao Công

Tổng kết,trường Quốc Gia Nghĩa Tử Huế vừa thành lập và hoạt động được khoảng 8 năm cho đến ngày 26/3/75 th́ trường đă bị mất cùng với sự bỏ ngỏ Huế.
Măi cho đến sau Đai hôi QGNT/92 vừa qua khi gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử Việt Nam được thành lập tại Hoa Kỳ, th́ Anh Chi Em Quốc Gia Nghĩa Tử Huế mới bắt đầu ngồi lại với nhau chia sẻ những "đắng cay, ngọt bùi" mà cuộc đời đă chất chồng đè lên thân phận của chúng ta.
Chúng ta Cầu Chúc toàn thể các Anh Chị Em QGNT Huế luôn gặp nhiều may mắn hơn trong tương lai!
 
Giáo Sư Phan Văn Cự

Vị hiệu trưởng QGNT Huế và học sinh QGNT Saigon và Huế

 

TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ

ĐẰ NẴNG : 1967 - 1975

 

Cô Nga và cô Hiếu trước trường QGNT Đà Nẵng

 

Trường Q Đà nẵng khai giảng tháng 9 năm 1967 . Cơ sở ban đầu sữ dụng tạm 2 dăy nhà ; 1 mái ngói , 1 mái tole , tường vôi cũ kỷ với 4 pḥng học .trong một khuôn viên hoang phế ngay trung tâm thị xă Đà nẵng .
Niên khóa 1967 – 1968: là khóa 1 , với 2 lớp 6 : Nam , Nữ với sĩ số 100 HS .Mỗi năm tăng dần lên 2 lớp .
- * 8 năm hoạt động có 7 khóa học : K1 , K2 ,K3 ,K4 , K5 , K6, K7 với khoảng 700 HS .
- Hiệu trưởng đầu tiên là Thày NGUYỄN ÍCH XUÂN , Thư kư Thày TRẦN NGỌC XUẤT , bác cai trường Đặng Lỡ . Trường chỉ có 2 giáo sư phụ trách tất cả các môn học cho 2 lớp 6 Nam sinh và Nữ sinh
- Thày HOÀNG TRỌNG NỒNG ,
- Cô TRINH THỊ NGỌC BÍCH .
- Năm học 1968 – 1969 : Hiệu trưởng là thày NGUYỄN HOA.( thay thày Nguyễn Ích Xuân )
- Giáo sư có them cô TRẦN THỊ MAI HOA :Lư hóa ,
- thày NGUYỄN VĂN NGỌC : Việt văn
- Cô BÙI THỊ PHƯƠNG LAN : Sữ - Địa
- Thày VĨNH DIỆN : Nhạc
- Cô HOÀNG THỊ YẾN : Vẽ
- Truong tuyễn thêm 2 lớp 6 : K 2 = 100 HS .
- Năm học 1969 – 1970 : Trường thêm 2 lớp 6 .K 3
- Giáo sư đă có thêm thày HUỲNH SƠN CƯƠNG : Toán .
- Thày NGUYỄN NHUNG ĐÍCH : Anh văn .
- Năm học 1970 – 1971 : K 1 đă lên lớp 9 , trường tiếp tục tuyển  thêm 2 lớp 6 : K4 .
- Tổng số học sinh bây giờ 400 .
- Thày TRỊNH ĐƯƠNG : Toán ,
- Thày PHAN Đ̀NH ÁNH : Anh văn .
- Năm học 1971 – 1972 : Trường mới khánh thành tại số …? .. đường Hùng vương .Trung tâm thị xă DN Trường trung học đệ nhị cấp QGNT – Đà nẵng đẹp khang trang với tổng số học sinh lúc đó là 500 HS gồm : 2 lớp 6 , 2 lớp 7 , 2 lớp 8 .2 lớp 9 , 2 lớp 10 .( K 1 là hoc sinh lớp 10 đầu tiên của trường Q Đà nẵng , là khóa đàn anh của DN tương đương Q 74 SG ).-
- Hiệu trưởng là thày TÔN THẤT DƯƠNG KỲ .
- Năm học 1972- 1973 : Trường tuyển thêmm 2 lớp 6 .K5 : Tổng số HS là 600 .
- Thày cô đă tăng thêm :
- Cô TẠ ĐẠO HUỆ : Anh văn
- Cô LÊ THỊ MINH TÂM : Việt vă
- Cô LÂM THÚY HẬU : Anh văn
- Cô NGUYỄN THỊ HẠNH : Sữ - Địa
- Cô NGUYỄN THỊ ÁI : Vạn vật ( nhà văn Thùy An )
- Niên khóa 1973 – 1974 : K 6 với 100 hs cho 2 lớp 6 Nam và nữ sinh
- Niên khóa 1974 – 1975 : K 7 tiếp tục h́nh thành . Tổng số học sinh là 700 .
- Thày Hiệu trưởng Tôn THất Dương Kỳ mất năm 1974 .

 

 


- Sau biến cố thang 4 / 1975 , trường Q GNT - DN bị xóa mọi vết tích . Vị trí đó đă được xây dựng mới thành một khu Trung tâm triễn lăm Thương mại Đà nẵng cho đến nay .
- Thày tṛ trường DN lưu lạc muôn phương .
- Năm 1991 : hs K 1 VƠ XUÂN từ Tây Đức về VN đă tổ chức họp mạt bạn bè K 1 tại Saigon . Nhận dịp ấy – cùng với sự lien lạc lại được thày Hoàng Trọng Nồng , cô Trần thị Mai Hoa , cô Nguyễn thị Ái , cô Lê thị Minh Tâm cũng dang sinh sống tại Saigon .Các bạn Q Da nẵng K1 đă h́nh thành hội thày tṛ Q Da nẵng và họp mat mỗi năm 2 lần vào 2 thời điểm 30 / 04 tại Dà nẵng và 20 / 11 tại Saigon .
- Từ năm 1991 đến 2012 trường trung học Q Đà nẵng đă tổ chức họp mặt TATC 21 năm liên tục 2 lần trong năm .
- 30/04 Q Da nẵng và thày cô ở khắp nơi sẽ về Đà nẵng để dự TATC trường Q Đà nẵng .
- . Ngày 20/ 11 Q Đà nẵng từ khắp nơi sẽ về Saigon để dự TATC trường Q Đà nẵng
- Năm 2004 : Thày Hoàng Trọng Nồng đă bắc nhịp cầu thân ái , giao lưu giữa Q Sai gon và Q Da nẵng :
- năm 2004 thày Nguyễn Sơn , thày Nguyễn Xuân Đạo , cô Cao Thủy Tiên học sinh th́ có chị YẾN NHI , Khánh H̉A , KIM SƠN, tham dự ngày TATC của Q Đa nẵng tổ chức tại SG
- Thày Huỳnh Sơn Cương là giáo sư Toán của cả 2 trường Q Da nẵng và Q Kỷ thuật SG .
- ...Năm 2010 nhóm 5 bạn Q 74 saigon : Phi Long , Anh Anh , Lê Phượng , Kim Phương , Kiều Loan cũng được mời tham gia ngày TATC Q Da nẵng v́ một số bạn K 1 Da nẵng cũng là Q 74 Saigon trong niên khóa 1973 – 1974 như Phạm Tấn Dũng , Nguyễn thị Ngăi K1 Q Da nẵng và là hoc sinh 12 A 5 , 12 A 2 của Q 74 SG .
- Thày Hoàng Trong Nồng mất năm 2006 .
- Sau 21 năm tái ngộ trong những lần họp mặt TATC , các Khóa K1 , K2 , K3 , K4 đă tập hợp được khoảng 80 bạn bè . Thường xuyên lien lac nhau bằng số điện thoại được lưu trong các đặc san . Đă thực hiện được 2 dặc san kỷ niệm bạn bè trường xưa :
năm 2010 Dặc san HƯƠNG HOÀI NIỆM .
Năm 2011 : dặc san KHUNG TRỜI DẤU YÊU . Đó là những sang tác của Thày và tṛ đầm ấm và thân thương vô vàn kỷ niệm với bạn bè trường Q xưa ..
- 20 h 56 ‘ - 27/12/2012.
Anh Anh –Q 74 .

 

Trường QGNT Biên Hoà

 

Bà Phan thị Dần, là chị cả của giáo sư Phan văn Cự, trước Tết Mậu thân 68 là hiệu trưởng trường Nam Ngọc ở Huế. Sau biến cố Mậu thân bà được bác sỹ Viện trưởng Viện Giáo Dục QGNT can thiệp với bộ giáo dục đưa bà về làm hiệu trưởng trường QGNT tại Tân Vạn Biên hoà từ lúc mới thành lập cho tới  năm 1975.

 

Bà cựu hiệu trưởng nay đã trên 90 tuổi và đang sinh sống tại Saigon và con là Tôn Nữ Diệu Nguyện, là cựu học sinh trường QGNT Tổng Hợp.
 

 

 

........Niên khóa 1971-1972, gia đình tôi ở Mỹ Tho, biết tin có trường QGNT Biên Hoà, cấp tiểu học, ở ngã ba Tân Vạn, cạnh xa lộ Biên Hoà nhận nội trú, nên mẹ tôi có cho cậu em trai thứ sáu, sinh năm 1962 học lớp ba ở đây. Cuối tuần có gia đình người cậu họ ở Thị Nghè, cũng là bố nuôi của chị Thanh Thủy Q72 đón về.

 

Tôi cũng có ra khu nội trú đón cậu em trai này. Trong trí nhớ còn sót, trường là hai dãy nhà tôn thấp gồm phoìng học và dãy song song là phòng ngủ và sinh hoạt khác.

 

Trường Biên hòa chỉ có đến lớp ba là hết, nên cậu em này chỉ học có một năm lại về Mỹ Tho. Trường không lớn lắm và tiện nghi cũng không bằng trường QGNT ở Saigon.

 

Do học sinh cấp một còn nhỏ tuổi nên rất ít Mẹ nào cho con đi xa.

Hy vọng ACE nào có biết thêm để làm Kỷ Yếu 50 Năm đầy đủ, để biết rằng chính phủ rất quan tâm chăm sóc cho những người con có hoàn cảnh mồ côi như chúng ta.

Đỗ Hoa 73

 

TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ CẦN THƠ : 1973- 1975

 


Khai giảng niên khóa đầu tiên 1973 – 1974 . với 4 lớp : 6 . 7 . 8 . 9 .
.Trường vẫn c̣n đang xây dựng dỡ dang tại dc 19 Lộ 20 tỉnh Cần thơ .Nay là số 19 đường CMT8 ,F An thới , quận B́nh thủy – thành phố Cần thơ .
Đại diện Viện GDQNGT - Quân khu 4 : Dại úy Nguyễn Thị Hiếu
Hiệu trưởng : Lê Phú Đức – Sĩ quan biệt phái
Hiệu đoàn trưởng kiêm Giám thị : Lê Quang Mỹ Ngọc –cựu HS BDD niên khóa 70 – 71 QGNT – SG
.Thư kư : Nguyễn thị Vân : Quả phụ tử sĩ
Giáo sư từ trường Văn Hóa Quân đội được điều sang dạy 4 lop : 6.7. 8 ,9 .
Đầu năm 1975 , trường vừa xây dựng hoàn thành tổng thể gôm 3 dảy lầu với các pḥng học . khu nội trú , khu văn pḥng . Sân vận động sinh hoạt thể thao .Chỉ mới hoạt động năm học đầu tiên nhưng Lê Quang Mỹ Ngọc cũng đă thành lập được một đội văn nghệ , một dội cầu lông , một đội bóng bàn non . trẻ , cho sinh hoạt hiệu doàn trường Q GNT Cần thơ .Buổi đầu số học sinh c̣n quá ít nên Nam nữ chung lớp .Lớp 6 đông nhất khoảng 20 em , lớp 9 chỉ có khoảng 10 em v..v..Tổng số học sinh của 4 cấp lớp học 6,7,8,9 khoảng 70 em .
Dự định niên khóa 1974- 1975 sẽ nâng lên trường cấp 3 .
Sau tháng 4/1975 - Trường Q GNT Cần thơ đă đổi tên thành trường Lư Tự Trọng khu Tây Nam bộ .
Hiện nay là trường Trung học phổ thông chuyên Lư Tự Trọng .--Thành phố Cần thơ .
…….14/01/2013.
A 2 -74.

 

 

 

 

 

QGNT và Các Chương Trình Học Bổng

 

Trong suốt 12 năm hoạt động 1963 - 1975, một số học sinh QGNT được tuyển đi du học ngoại quốc hay các chương trình giáo dục ưu tiên dành cho QGNT trong nước.

 

Có hai khóa du học tại Hoa Kỳ, khóa thứ nhất vào năm 1968 có 55 sinh viên  và khoá thứ hai vào năm 1969 có 30 sinh viên.

 

Có ba khóa du học Đài Loan, mỗi khóa 20 sinh viên lần lượt lên đường vào các năm 1970, 1972, 1974. Sau khi học hành và thực tập, các sinh viên được tuyển vào làm việc cho Công Ty Đường Việt nam. Riêng khóa 1974 thì kẹt lại Đài Loan sau 1975. Đến nay phần đông 20 anh em này đang định cư tại Hoa Kỳ.

 

Khóa Du Học Đường Mía Đài Loan Cuối Cùng Năm 1974

Năm 1973 khoảng trên hai chục nam sinh chúng tôi, vừa đậu tú tài hai, sinh khoảng 1956-1954, thuộc diện Quốc Gia Nghĩa Tử tức là có cha là quân nhân, công chức đă hy sinh tính mạng hay một phần thân thể trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam trong hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, đã được bộ Cựu Chiến Binh tuyển chọn để gởi đi du học ngành Đường mía tại Đài Loan.
Học bổng được bảo trợ bởi công ty Đài Loan Đường Nghiệp theo hiệp ước kinh tế giữa hai chính phủ Việt Nam và Đài Loan. Chương trình được bao gồm một năm huấn luyện thực tập tại các nhà máy sản xuất đường mía tại Việt Nam và một kỳ thi khảo trước khi được gởi sang Đài Loan tu nghiệp 18 tháng theo chương trình và sự điều hành của Công Ty Đường Đài Loan. Trong thời gian chuẩn bị và thực tập tại nhà máy đường Biên Hoà và Bình Dương, các thí sinh Quốc Gia Nghĩa Tử có cơ hội làm quen với dụng cụ máy móc và các giai đoạn sản xuất đường từ nông trại trồng trọt thâu hoạch các đợt mùa mía cho tới phương tiện chuyên chở về nhà máy để ép nấu tinh luyện nên những hạt đường tinh khiết cho quần chúng tiêu thụ; cũng trong thời gian này, họ được gặp gỡ và quan sát các đàn anh đã đi du học ngành Đường Mía Đài Loan trước đây hiện đang sinh hoạt điều hành nhà máy làm đường, được học hỏi hướng dẫn cho những bước kế tiếp khi du học bên Đài Loan và vai trò trong kỹ nghệ Đường Mía Việt Nam sau khi tốt nghiệp.
Sau khi chuẩn bị gần một năm và vượt qua cuộc thi chung kết, chúng tôi được đi khám sức khỏe và vào yết kiến phu nhân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân thủ tướng Trần Thiện Khiêm; được các vị đó tặng quà, nhắn nhủ dặn dò cố gắng học hành để đừng làm mất thể diện quốc gia và để giúp nước phát huy ngành đường mía sau này. Tháng 10 năm 1974, chúng tôi tới Đài Loan và lập tức được huấn luyện phần lý thuyết rồi chia ra thành từng nhóm nhỏ gởi đi tới các nhà máy khác nhau để thực tập và bắt tay thực hành điều hành các chặng sản xuất đường. Có lẽ chương trình đã được cải thiện dựa vào kinh nghiệm của các khoá trước, nên những mách nước dặn dò của các lớp đàn anh dường như đã bị thay đổi nên ít còn tương tự hay có hiệu quả. Và chúng tôi học hỏi làm việc không ngừng dưới sự hướng dẫn thôi thúc gắt gao của các vị trưởng xưởng. Tương lai và khả năng đóng góp cho kỹ nghệ đường của chúng tôi ngày một cụ thể vững chắc. Chúng tôi cũng có dịp đi tham quan các danh lam thắng cảnh của Đài Loan trong những ngày lễ nghỉ, và có dịp gặp gỡ trò truyện với đại sứ Nguyễn Văn Kiểu, bào huynh của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975, làm thay đổi lịch trình và tương lai dân tộc và của chúng tôi hoàn toàn. Tháng 7 năm 1975 khoá du học Đường Mía 1974 chính thức bị bộ ngoại giao Đài Loan kết thúc vì Việt Nam Cộng Hoà đã không còn nên hiệp ước kinh tế giữa hai chính phủ cũng không còn hiệu lực. Sau đó chúng tôi bị phân tán làm hai nhóm, nhóm thiên về công nghiệp được gởi ra làm việc ngoài bến tầu ngoài hải cảng và nhóm thiên về nông nghiệp được gởi đi khai khẩn vùng đất còn hoang sơ hẻo lánh. Thẻ ngoại kiều của chúng tôi bị bộ ngoại giao Đài Loan thu hồi, và trao trả sau khi đă đóng dấu lên đó ba chữ "Vô Quốc Tịch". Nước mẩt, nhà tan, chúng tôi trở thành những người vô tổ quốc với cái viễn ảnh của tương lai mù mịt . Thêm vào với sự đau buồn vì mất nước, mất liên lạc gia đ́nh, cái sốc của những học sinh sinh viên mười bảy mười tám tuổi chưa thực sự rành ngôn ngữ, phong thổ địa phương phải lăn lộn tranh sống với giới lao động Đài Loan đă làm cho chúng tôi ưu tư cân nhắc rất nhiều về tương lai đen tối của ḿnh nếu tiếp tục ở lại những vùng đất hoang sơ và hải cảng của Đài Loan. Do đó tuy không hẹn mà sau một vài tuần lễ chúng tôi lần lượt bỏ về thành phố. Trở lại thành phố, chúng tôi mỗi người một va ly vật dụng lang thang không nhà cửa, kéo nhau đến xin yết kiến đại sứ Kiểu nhưng ông từ chối vì ông cũng đã trở thành ngoại kiều tị nạn không còn chức vụ và quyền lực nên không có thể giúp ai được. Chúng tôi lang thang và tản mác chia nhau ra tạm trú với các anh chị du học sinh Việt Nam, những người sang học tại các trường Đại học trước chúng tôi đă khá lâu. Tình trạng của các anh chị này tương đối ổn định hơn, nhưng chắc cũng không khỏi hoang mang trước giai đoạn mất nước, và việc du học sinh trở thành ngoại kiều được tạm dung. Chúng tôi may mắn gặp một số các anh chị du học sinh hay tu nghiệp quen thuộc với nếp sống và ngôn ngữ Trung Hoa hơn đã tận tình giúp đỡ lo chỗ ở kiếm công việc làm ăn và cả các dịch vụ thông dịch y tế khi đau yếu; và chúng tôi cũng thật may mắn gặp được hai vị linh mục Việt Nam du học Đài Loan, được các ngài hướng dẫn và an ủi trong trong giai đoạn khủng hoảng này.
Một trong hai vị linh mục đă lo cho chúng tôi chỗ ăn ở vững chắc hơn và nhờ người dậy chúng tôi Hoa ngữ Quan thoại cấp tốc bù lại những tháng ngày ỷ vào các thông dịch viên khi còn là du học sinh. Ngài đă giúp cho chúng tôi tìm các công việc để có thể tự lực cánh sinh trong trường hợp nếu phải vĩnh viễn ở lại Đài Loan, nhưng mặt khác ngài cũng khuyến khích chúng tôi nạp đơn xin đi định cư Hoa Kỳ và các quốc gia tự do khác, hay các trường Đại học lớn trên thế giới có chương trình cho du học sinh hầu tiếp tục đường học vấn để có tương lai tươi tốt đẹp hơn. Chính ngài cũng xin đi định cư tại Hoa Kỳ để phục vụ các con chiên và đồng bào người Việt tị nạn định cư rải rác các nơi có ngôn ngữ nếp sống hoàn toàn khác biệt về mọi phương diện. Ngài cũng tổ chức cho chúng tôi đi du lịch khắp ngõ ngách Đài Loan một chuyến như để tạm biệt vì biết trước Đài Loan sẽ không hậu đãi hay cầm chân chúng tôi được lâu. Một vài người chúng tôi có thân nhân ở nước ngoài bảo lãnh nên được đi định cư sớm, nhưng tất cả chúng tôi còn lại đều lần lượt được bảo lãnh sang Hoa Kỳ sau khi tới Đài Loan du học và lăn lộn ngoài xã hội đó trên dưới hai năm. Trước khi chúng tôi được Hoa Kỳ cho đi vài tháng thì bộ ngoại giao Đài Loan cũng thay đổi thái độ và tìm cho chúng tôi những việc làm rất tốt trong các phòng thí nghiệm hay vai trò điều hành hãng xưởng lớn tại Đài Loan nếu chúng tôi muốn, và họ còn tặng cho mỗi người chúng tôi hai trăm đô la Mỹ khi chia tay lên đường đi nước ngoài.
Khi tới Hoa Kỳ xin vào trường đại học tôi phát giác ra một văn kiện hay chứng nhận rất hữu dụng do đại sứ Việt Nam Nguyễn Văn Kiểu tại Đài Loan đã ký ngày 29 tháng 4 năm 1975 tức là một ngày trước ngày quốc hận; văn bản này được viết bằng Anh ngữ chứng nhận danh sách hai mươi du học sinh chúng tôi là các Quốc Gia Nghĩa Tử hay Wards of the Nation, đã tốt nghiệp trung học và được quốc gia gởi đi du học tại Đài Loan. Đại sứ Nguyễn Văn Kiểu đã ký giấy chứng nhận bằng Anh ngữ này một ngày trước khi măn nhiệm, phải chăng vì ông đã biết trước phần nào cách xử thế phủi tay của chính phủ Đài Loan và nhu cầu tương lai của du học sinh chúng tôi sau khi Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản? Chính nhờ vậy mà cá nhân tôi ngoài bản án Quốc Gia Nghĩa Tử bằng Việt ngữ còn có thêm một văn bản chứng thực bằng Anh ngữ một ngày trước khi mất nước, để khi nạp đơn xin theo học trường đại học St. Cloud, Minnesota Hoa Kỳ, tôi được chấp nhận dễ dàng vô điều kiện dù nhân viên văn phòng rất đỗi ngạc nhiên.
Phạm Văn Oanh QGNT 73
 

 

 


Chương Tŕnh Học Bổng do Làng Ḥa B́nh Tây Đức trợ Câ’p

Làng Ḥa B́nh Tây Đư’c là một tổ Chư’c từ thiện, do một mục sư tin lành tổ Chư’c , qui tụ một sô’ ba’c sỹ và ca’c thiện nguyện viên, co’ cơ sở tại tỉnh Orberhaussen tại Tây Đư’c , mục đi’ch hoạt động là đi t́m ca’c trẻ em trên thê’ giơ’i là nạn nhân của chiê’n tranh. Đa sô’ ca’c trẻ em tại Làng Ḥa B́nh Tây Đư’c là ca’c trẻ em bị tật nguyền do bom đạn gây ra trong thời gian chiê’n tranh.

1 1971-1972: Một sô’ học sinh QGNT đang học trung học được sang Tây Đư’c tiê’p tục học và làm việc trong làng để giu’p đỡ ca’c trẻ em tàn tật.

1 1974-1975: 6 QGNT trên toàn quô’c được câ’p học bổng toàn phần (trợ câ’p ăn ở và tiền học phi’). Làng Ḥa B́nh Tây Đư’c muô’n mở một phân khoa mơ’i co’ tên là “Truyền Thông Xă Hội” tại Đại Học Ḥa Hảo Long Xuyên. Theo đu’ng chương tŕnh này th́ ca’c học sinh sẽ được sang Đư’c tiê’p tục học Cao Học sau khi tô’t nghiệp tại VN.
Trinh Hoai Nam 73



Thụy Sĩ: Những ngày khó quên
Nguyễn Duy Tín
thuật lại theo Phương Lan

Vào năm 1972, một chương tŕnh giúp đỡ các Cô Nhi Tử Sĩ giữa 2 quốc gia Việt Nam và Thụy Sĩ được thực hiện nhằm mục đích tạo điều kiện cho các học sinh ở lứa tuổi 12 đến 14 (học lực từ Đệ Thất đến Đệ Ngũ) được ra ngoại quốc học hỏi các ngành nghề trong ṿng 8 năm, sau đó tất cả sẽ trở về phục vụ quê hương Việt Nam yêu dấu. Điều kiện để được tuyển chọn phải là những học sinh đă có án thừa nhận Quốc Gia Nghĩa Tử, có sức khỏe tốt, học lực và hạnh kiểm tốt và mỗi gia đ́nh chỉ được chọn có một người mà thôi (dù có nhiều người trong cùng một gia đ́nh hội đủ điều kiện). Sau khoảng 6 tháng trời làm thủ tục giấy tờ, 21 học sinh đă được trúng tuyển gồm 14 nam sinh và 7 nữ sinh(trong số đó có 2 người đang là học sinh của Trường QGNT Sài G̣n) đă lên đường đi Thụy Sĩ vào tháng 7/1972. Tháp tùng phái đoàn c̣n có ông bà Giáo Sư Trần Như Biên và 2 nữ Giáo Sư (Cô Sang và Cô Hoa nguyên là Giáo Sư Trường QGNT Sài G̣n). Quư vị Giáo Sư này được cử đi theo phái đoàn Du Học Sinh có nhiệm vụ hướng dẫn và dạy dỗ các học sinh v́ tất cả hăy c̣n quá nhỏ mà đă phải rời xa gia đ́nh để sống trên một đất nước lạ trong một thời gian dài. Đến lúc lên đường th́ gia đ́nh Giáo Sư Trần Như Biên phải ở lại v́ c̣n một số giấy tờ bị trục trặc vào phút chót, Giáo Sư Biên và gia đ́nh đă đến Thụy Sĩ vào khoảng mấy tháng sau đó.
Địa điểm mà nhóm học sinh QGNT đến học ở Thụy Sĩ là làng Kinderdorf Pestalozzi thuộc tỉnh Trogen (Kinderdorf - tiếng Đức là làng trẻ con, Pestalozzi là tên của một nhà giáo dục đă có công nuôi dưỡng và dạy dỗ các trẻ mồ côi trong thời đệ nhị thế chiến). Ở đây đă có các học sinh của nhiều quốc gia khác như: Đại Hàn, Ấn Độ, Anh quốc, Ư Hy Lạp, Tây Tạng, Phần Lan, Ethiopia, Tunisia và Việt Nam, th́ đây là một nhóm đầu tiên và cũng là duy nhất. Tổ chức của làng gồm một trường học (tên trường là Pestalozzi) cho tất cả học sinh của mọi quốc gia và những học sinh của một quốc gia sẽ sống chung trong cùng một nhà với quí vị Giáo Sư tháp tùng.
Nhóm học sinh Việt Nam được phân chia cho một căn nhà 3 tầng, 6 pḥng ngủ gồm có: tầng thứ nhất là pḥng ăn, nhà bếp, pḥng khách và 4 pḥng ngủ (dành cho các nam sinh và 2 nữ Giáo Sư). Tầng thứ nh́ là một thư viện chứa những sách vở Việt Nam và của gia đ́nh ông bà Biên. Tầng trên cùng là pḥng ngủ của các nữ sinh. Khoảng lưng chừng giữa tầng thứ nhất và tầng thứ hai (phía trên pḥng khách và nhà ăn) là pḥng học của các học sinh, tại đây có để một cây đàn piano để mọi người xử dụng. Ngoài ra c̣n có một pḥng may vá và chỗ để chơi bóng bàn ở dưới hầm. Căn nhà này được đặt tên là Lạc Hồng.
Thời khóa biểu học hàng ngày gồm 2 buổi: một buổi đến trường học theo chương tŕnh chung của làng (có nhiều lớp học khác nhau tùy theo tŕnh độ). Sinh ngữ chính được dùng là Đức Ngữ c̣n sinh ngữ phụ là Anh hoặc Pháp Văn tùy theo sư> chọn lựa của học sinh. Buổi c̣n lại các học sinh sẽ học tiếng Việt ở nhà dựa theo chương tŕnh giáo dục ở Việt Nam (Toán, Việt Văn, Cổ và Kim Văn, Sử, Địa v/v ...). Ông bà Giáo Sư Biên và 2 nữ Giáo Sư Sang và Hoa phụ trách phần giảng dạy chương tŕnh Việt Ngữ cũng như tổ chức thi cử, cho điểm và sắp hạng các học sinh v/v ... Như vậy, các học sinh QGNT Việt Nam cùng một lúc phải theo học 2 chương tŕnh, một để theo kịp các bạn đồng học tại trường thuộc nhiều quốc gia khác nhau, mặt khác vẫn phải duy tŕ chương tŕnh căn bản của một học sinh Việt Nam để sau này trở về nước sẽ không gặp nhiều trở ngại trong việc tiếp tục việc học cũng như để phục vụ đất nước. Chương tŕnh học c̣n có những giờ thể dục, thể thao bắt buộc như bóng chuyền, bóng rổ, vũ balet v/v ...
Tâm trạng chung của các du học sinh lúc chưa rời Việt Nam phải nói là rất háo hức, mong muốn thời gian trôi qua nhanh để chóng đến ngày được đến xứ người học hỏi những cái hay, thưởng thức những cảnh đẹp mà với hoàn cảnh của gia đ́nh khó có điều kiện được xuất ngoại. Nhưng ngược lại trong thâm tâm các học sinh này cũng rất lo sợ và buồn v́ phải xa gia đ́nh vào lúc tuổi c̣n quá nhỏ, hơn nữa lại phải đến ở nơi xứ người sống trong một thời gian dài mà chung quanh hoàn toàn khác lạ từ đời sống, phong tục và kể cả ngôn ngữ nữa. Mặc dù bên cạnh đó luôn luôn có sự an ủi, khuyến khích và hu8ớng dẫn của ông bà Biên cùng 2 cô Sang và Hoa trong t́nh thương yêu đùm bọc nhưng làm sao có thể sánh với t́nh gia đ́nh ruột thịt được. Âu cũng là điều tội và đáng thương cho các em vậy!
Cuối cùng th́ giây phút rời xa quê hương, gia đ́nh và bè bạn cũng phải đến. Vào khoảng tháng 7/72, nhóm du học sinh bé nhỏ rời Phi Trường Tân Sơn Nhất để lên đường đến Thụy Sĩ (gia đ́nh ông bà Biên lúc đó không đi theo cùng) và được đưa về căn nhà Lạc Hồng. Trong thời gian đầu được sự góp sức của bà Lan (phu nhân của một Thượng Nghị Sĩ Thụy Sĩ) đến sống chungtrong nhà để cùng giúp đỡ và hướng dẫn các học sinh, thêm vào đó c̣n có một số không ít các sinh viên Việt Nam và những người đă lập nghiệp lâu tại đây thường xuyên lui tới để yểm trợ về tinh thần cũng như sẵn sàng đóng góp vật chất cho căn nhà Lạc Hồng. Đó là những ân nhân của tất cả học sinh trong gia đ́nh QGNT ở những bước đầu tập làm quen với cuộc sống mới (người kể chỉ c̣n nhớ được bác Hiển vốn là một nhạc sĩ ở Việt Nam trước kia).
Về vấn đề ẩm thực th́ có một nhà bếp chính cung cấp thức ăn cho cả làng từ thứ hai đến thứ sáu, c̣n 2 ngày cuối tuần th́ mỗi gia đ́nh tự đi chợ và tự nấu ăn lấy. Tất cả những chi phí của từng gia đ́nh đều do làng cung cấp, kể cả những chi tiêu cho vật dụng hàng ngày trong nhà và mua sắm cho từng cá nhân như quần áo, đồ dùng cá nhân, tem thư để gởi thư về cho gia đ́nh v/v ...
Lịch tŕnh sinh hoạt của nhà Lạc Hồng được sắp xếp ngoài giờ học, ông bà Biên và 2 nữ giáo sư c̣n thường xuyên tập cho các học sinh những bài hát, điệu múa, đóng kịch v/v ... để các em có thể tham gia các buổi tŕnh diễn văn nghệ chung với các gia đ́nh khác trong những dịp lễ lớn hoặc tất niên v/v ... đồng thời phổ biến và giúp cho các quốc gia khác phần nào hiểu được phong tục và văn hóa Việt Nam. Ngoài ra theo chương tŕnh của làng, cứ mỗi sáng thứ hai đầu tuần sẽ có một gia đ́nh lo phụ trách về mọi tiết mục văn nghệ của ngày hôm đó trước khi ông trưởng làng báo cáo mọi sinh hoạt trong tuần vừa qua. Các học sinh c̣n được dịp vui chơi trao đổi và làm quen với học sinh bạn qua những buổi tổ chức cắm trại ngoài trời, leo núi có giải thưởng, lửa trại v/v ... Đây cũng là những cơ hội rất tốt để học hỏi lẫn nhau những điều hay, ư lạ trong tinh thần tranh đau. Vào những tháng hè, nếu không bận những sinh hoạt chung hoặc đi đâu xa, các học sinh c̣n được phép đi làm hè (qua sự chấp thuận của ông bà Biên) để có thêm lợi tức cho riêng ḿnh bằng cách xin làm việc ở những thành phố lân cận.
Hè năm 1974, nhân một chương tŕnh trao đổi văn hóa giữa nhà Lạc Hồng và một nhóm học sinh Ư Đại Lợi, các học sinh Việt Nam được sang Ư chơi trong 3 tháng hè, ngược lại các học sinh Ư qua ở trong nhà Lạc Hồng. Những dịp này đă giúp các em hiểu biết thêm về đời sống và sinh hoạt của các nước khác để bổ túc vào vốn kiến thức của ḿnh rất hữu ích cho sau này.
Theo như chương tŕnh đă trù liệu th́ vào dịp hè 1975 các học sinh Việt Nam sẽ được về thăm gia đ́nh. Kể sao được hết những sự vui mừng và háo hức của tất cả mọi người. Cả thầy lẫn tṛ, ai ai cũng mong đợi từng giờ, từng phút. Mọi chuẩn bị đă xong kể cả vé máy bay cũng đă được mua từ trước. Những tin tức chiến sự hàng ngày từ bên nhà qua hệ thống truyền thông cho thấy ngày càng ác liệt và bất lợi cho Việt Nam Cộng Ḥa, và dĩ nhiên gần đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 th́ chương tŕnh về thăm nhà coi như bị hủy bỏ. Trong suốt thời gian sau này cho đến ngày mất nước, mọi người đều cùng chung tâm sự lo lắng và sợ hăi. Một phần v́ không đoán được chuyện ǵ đă xảy ra cho gia đ́nh và thân nhân bên nhà, phần khác lại lo không biết ngày mai đây cuộc đời ḿnh sẽ ra sao nếu đất nước bị rơi vào tay bọn quỷ đỏ. Sau ngày 30 tháng 4 ấy, v́ Ṭa Đại Sứ Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n hoạt động nữa nên chương tŕnh học của nhóm du học sinh Việt Nam coi như bị chấm dứt. Khoảng 1 năm sau, một số học sinh phải đổi qua tỉnh khác đi học v́ trường làng chỉ có đến lớp Đệ Tứ mà thôi, và cũng kể từ đó mỗi người phân tán mỗi nơi tự túc lo liệu đời sống cho riêng ḿnh (dù nhiều em c̣n quá nhỏ) do đó mối dây liên lạc ngày càng rời rạc và dần dần bị cuốn mất hút trong những bận rộn v́ sinh kế hàng ngày. Thảng hoặc có dịp trở về lại thăm làng cũng chỉ gặp được một vài bạn bè nay đă trưởng thành trở về sống vài ngày trong căn nhà ấy (đặc biệt căn nhà này được dành cho những người đă rời khỏi lànng) và gia đ́nh Lạc Hồng cũng không c̣n ai sống dưới sự bảo trợ của làng nữa.
Theo tin tức được biết, sau này khi làn sóng người tỵ nạn lên cao, ông bà Biên được mời trở lại làng làm việc để giúp đỡ và hướng dẫn những trẻ em tỵ nạn mồ côi mà chính phủ Thụy Sĩ đă chấp thuận cho định cư và một lần nữa, danh từ nhà Lạc Hồng lại đượckhai sinh với cùng một nhiệm vụ mặc dù hoàn cảnh có khác xưa. Khoảng năm 1986 ông bà Biên (lúc ấy không c̣n làm việc tại làng nữa) sang Tây Đức để dự Đại Hội Tôn Giáo (Tin Lành), trên đường trở về Thụy Sĩ bà Biên đă tử nạn v́ tai nạn xe hơi. Riêng 2 nữ giáo sư Sang và Hoa cũng định cư tại Thụy Sĩ.
Nhóm du học sinh QGNT tại Thụy Sĩ ấy giờ đây cũng đă định cư khắp nơi tùy theo hoàn cảnh mỗi người, nhưng đại đa số vẫn c̣n sinh sống tại Thụy Sĩ. Cho đến nay làng vẫn tiếp tục liên lạc với tất cả những học sinh cũ qua bản thông báo tin tức hàng năm
.

Nguyễn Duy Tín

Trích Kỷ Yếu 92 QGNT "Trở Về Trường Cũ"
 

Các Ban Đại diện Học Sinh

Trung học QGNT Sàigon.

 

Ban Đại Diện Niên Khóa 1968-1969

Đại Diện Nam : Nguyễn văn Khanh 1A
Phó: Mai An Toàn 2B2


Đại Diện Nữ: Nguyễn Thị Chai 1A
Phó: Chung Yến Nhi 1A


Ban Trật Tự Khánh Tiết: Nguyễn Văn Nghiệp 2B2
Nguyễn Thị Nhuận 1A


Ban Học Tập Báo Chí : Phan Nhật Tân 2A2
Nguyễn Thị Ngự 1A


Ban Xă Hội: Phạm Văn Bộ 1B
Trần Ngọc Minh Châu 2B2


Ban Văn Nghệ: Mai Đức Phú 1A
không nhớ


Ban Thể Thao: Tăng A Nh́ 2B2
Phạm thị Lư 1A

 

 



Niên Khóa 1969-1970:

Phạm ngọc Trường Q71 -  Nguyễn thị Lan Q70


Trần đức Nghiă Q71 -  Vơ thị Trinh Q70


Trần Ngọc Lâm Q70 - Lê thị bạchTuyết Q70


Thái văn Hoàng Q70 - Nguyễn thị Thuật Q71


Đinh văn Thám Q71 - Kiều thị Sơn Q71


Nguyễn văn Nghi Q71 - Nguyễn ( hay Trần ) thị ngọc Châu Q72


Nguyễn văn Tuynh Q71 - Ngô ngọc Dung Q71


Nguyễn anh Dũng Q71 - Nguyễn thị Lệ Q71


.....................Phương Q71

*** c̣n thiếu khoảng 3 người v́ Ban Đại diện gồm có Ban Văn nghệ , Học tập , Xă hội , Sinh hoạt học đường . Mỗi ban gồm 2 nam và 2 nữ .

 

 

 

 

 

Niên Khóa 1970-1971:

 

Đại diện Nam Sinh:

Dam van Tuan 12B1

Nguyen Thang Long 12B1

 

Đại diện Nữ Sinh:

Le Quang My Ngoc 11B2

Le Thi Thuy Tien 11A2

 

Tong Thu Ky : Tran Duc Nghia 12A2

Nguyen Ngoc Yen 12A1

 

Khoi Hoc Tap : Phan Si Tuan 12B1

Nguyen Minh Phuong 12A1

 

Khoi Trat Tu : Nguyen Trung Thuoc 12B1

Dao thi Luong 11A2

 

Khoi The Thao : Bui Thai Lan 12B1

Nguyen Thi Huyen Nga 10 A3

 

Khoi Xa Hoi : Bui Manh Hoanh 12B1

Kieu Thi Son 12A1

 

Khoi Van Nghe : Do Manh Chu 12B2

Nguyen Thi Thuan Chau 10A3

Ngo ngoc Dung 12A1

 

Khoi Bao chi : Hoang Van Son 12B1

Nguyen Thi Le 12B2

 

Khoi Sinh Hoat thanh nien : Nguyen van Tuynh Pham trung Thanh

 


 

 

 

Niên Khóa 1971-1972:


Đại diện Nam sinh : Phạm Văn Đức, Q73 - Trần Dũng Tiến, Q73.

Đại Diện Nữ sinh : Đào Thị Lương, Q72 - Ngô Ngọc Bằng, Q72
 
Tổng Thư Kư: Nguyễn Hoàng, Q73

Ban Văn Nghệ :  Trần Quảng Nam, Q73 -  Ng~ Thị Thuận Châu
, Q73

 

Ban Báo Chí : Nguyễn Quang Nghinh, Q73 -  Ng~ Thị Ngọc Dung, Q73

 

Ban Thể Thao :Mai Cao Tăng Q73 - Ng~ Thị Kim Khánh, Q73 
 
Ban Trật Tự : Phạm Văn Việt, Q72 - Dương thị Quư, Q72

 

Ban Xă Hội :  Bùi Thanh Vũ, Q73 - Phạm Thị Oanh, Q72

 

Ban Học Tập :Phạm Trung Thành, Q73 - Ng~ Thị Kim Phượng, Q73


Ban Sinh hoạt học đường : Phạm Văn Đệ Q72

 

 

 

Niên Khóa 1972-1973:

 

Đại diện nam sinh:


Chủ Tịch: Nguyễn Trung Vinh


Phó Chủ  tịch: Nguyễn Tri Phương


Tổng Thư ký: Đỗ Ngọc Vinh


TKTrTu: Mai Cao Tăng


TKVN: Vơ Thanh Long


TKBC: Nguyễn Mạnh


TKTT: Nguyễn Đức Dũng


TTHT: Phan Khắc Thành


TKXH: Hoàng B́nh Hải



Đại diện Nữ Sinh:


Chủ tịch: Nguyễn Thị Kim Thanh


Phó chủ tịch: Lương Thị Điều


Tổng Thơ Ký: Hoàng Thị Đông


TKTrTu: Nguyễn Thị Kim Xuân


TKVN: Nguyễn Thị Kim Cúc


TKBC: Nguyễn Thị Mai Liên


TKTT: Nguyễn Thị Kim Khánh


TKHT: Nguyễn Thị Mai Phương


TKXH: Nguyễn Thị Oanh

 

 

 

 

 

Niên Khóa 1973-1974:

 

Đại diện Nam Nữ Sinh:

Nguyễn tri Phương - Nguyễn Xuân Hùng

Đinh thị Hạnh - Nguyễn thị Ngọc Yến

 

Tổng - Phó Tổng Thư Ký và Thủ Quỹ

Đoàn Ngọc Long - Mai thị Bích Thủy

 

Khối Trật Tự - Khánh Tiết

Hà Hồng Hải - Trần thị Kim

 

Khối Thể Thao

Nguyễn Xuân Hùng - Nguyễn thị Thanh Hà

 

Khối Xã Hội
Lê Trọng Điểm - Phạm Kim Hoàng

 

Khối Học Tập và Du Khảo

Phạm Ngọc Hưởng - Nguyễn thị Hạnh

 

Khối Văn Nghệ

Đặng Phi Long - Nguyễn thị Vinh

 

KHối Báo Chí

Hoàng văn Nam - Nguyễn thị Anh Anh

 

Khối Sinh Hoạt Thanh Niên

Nguyễn Mạnh Hùng - Đào thị Dỹ

 

 

Niên Khóa 1974-1975:

 

Đại Diện Trưởng nam sinh: : TRẦN ĐỨC HIỆP


Đại Diện Trưởng nữ sinh : ĐINH THỊ THI


Đại Diện Phó Nam sinh : LÊ TRỌNG ĐIỂM


Đại Diện Phó Nữ sinh : NGUYỄN THỊ KIM THANH


Tổng thư kư : NGUYỄN TRUNG QUANG - BÙI TUYẾT MAI


Trưởng khối Báo chí: : LÊ XUÂN SƠN - NGUYỄN THỊ HẠNH


Trưởng khối TT : ĐINH VĂN DŨNG - NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẬU

 

Trưởng khối Xă hội: NGUYỄN VĂN HẢI - LÊ THỊ KIM LIÊN


Trưởng khối Trật tự & Khánh tiết: VŨ VĂN VƯƠNG - BÙI THỊ GIÁO


Trưởng khối sinh hoạt: PHẠM VĂN THIỆN - VŨ THỊ KIM THANH


Trưởng khối Học tập & Du khảo: NGUYỄN THÀNH CÔNG - NGUYỄN THỊ MAI TRÂM

 

Trưởng khối VĂn nghệ: NGUYỄN VĂN MINH - ĐẶNG THỊ BÍCH NGỌC

 

 

Các Ban Đại diện Học Sinh

Trung học Kỹ Thuật QGNT Sàigon.

 

Niên Khóa 1972-1973

 

Tổng Thư ký: Dương Văn Hữu

Phó Tổng Thư Ký: Đỗ Khắc Hùng

Ban Văn Nghệ-Báo chí: Lê Anh Quân-Phạm Quốc Gia

Ban Thể Thao-Trật Tự: Vũ Công Thanh-Tạ Trung Đức

Ban Xã Hội-Khánh Tiết: Lưu Mộng Hoàng-Lê Minh Rạng

 

 

 

 

Các Ban Đại diện Học Sinh

Trung học Tổng Hợp QGNT Sàigon.

 

Niên Khóa 1974-1975


Trưởng BĐD: Nguyễn Thành Lâm
Phó BĐD : Lưu Minh Trí
Thư kư kiêm thủ quỹ: Nguyễn thị Tuyết

TB Học Tập : Trần Thành Khoa
TB Báo Chí: Vơ thị Minh Phượng
TB Văn Nghệ: Nguyễn thị Kim Phụng
TB Thể Thao: Nguyễn Ngọc Phương
TB Xă Hội: Huỳnh Thanh Phong
 

 

................

 

Cô Công An cùng học sinh

 

 

Chủ Đề Các Đăc San

Đại Hội Quốc Gia Nghĩa Tử

 

1992: Đặc San và Đại Hội : Vinh Danh Ca'c Thầy Cô - Trở Về Trường Cũ

1993: Đặc San và Đại Hội:  Nối Lại Vòng Tay

1995: Đặc san:  Mẹ Việt Nam - không có đại hội

2003: Đại Hội Tương Phùng - Đặc San: Tương Lai và Hy Vọng

2005: Đặc San và Đại Hội:  30 Năm Nhìn Lại 1975-2005

2007: Đặc San và Đại Hội:  Vẫn Giữ Niềm Tin

2009: Đại Hội: Ngày Hội QGNT - Đặc San: Vẫn Giữ Niềm Tin

2011: Đại Hội và Đặc San: Nối Chặt Vòng Tay

2013: Đại Hội và Kỷ Yếu : 50 Năm QGNT 1963 - 2013

 

 

 

GD/QGNT TỪ 1975 - 1992


(Ghi lại theo những dữ kiện đă được phổ biê’n trong hai tập Kỷ Yê’u QGNT 1992: Trở Về Trường Cũ và 1993: Nô’i lại Ṿng Taỵ Để tưởng nhơ’ đê’n: Ba’c Trương khuê Quan, Ba’c Bùi trọng Chi, Thầy Trần quô’c Gia’m cùng ca’c anh chị: Nguyễn thị Hồng, Nguyễn duy Ti’n và Tăng ly’ Công).


Từ sau biê’n cô’ đổi đời năm 1975, đô’i vơ’i chê’ độ mơ’i, những ǵ liên quan đê’n Miền Nam Việt Nam trươ’c kia đều trở thành đô’i tượng cần phải loại bỏ. Vơ’i chủ trương đo’, toàn bộ tài sản của Viện Gia’o Dục Quô’c Gia Nghĩa Tử được dùng vào việc kha’c; Ca’c Gia’o Sư và học sinh hiện c̣n đang theo học bị phân phô’i đi ca’c trường sở khă‘p nơị

 

Hơn thê’, ảnh hưởng chi’nh sa’ch ly’ lịch của chê’ độ mơ’i, những Quô’c Gia Nghĩa Tử đă v́ sự sô’ng c̣n mà phải dâ’u đi ca’i qua’ khư’ của ḿnh để tra’nh t́nh trạng bị trù dập, đầy đoạ; trong hoàn cảnh đo’, danh xưng Quô’c Gia Nghĩa Tử tưởng chừng như đă không c̣n hiện hữu nữạ Một sô’ i’t ca’c cựu học sinh Quô’c Gia Nghĩa Tử thoa’t ra được nươ’c ngoài vào giờ phu’t sau cùng hoặc may mă‘n sô’ng so’t sau ca’c đợt vượt biển, vượt biên kinh hoàng đă phải đô’i diện vơ’i những kho’ khăn bươ’c đầu để hội nhập vơ’i cuộc sô’ng mơ’ị

 

Vài năm sau đo’, sau khi đă tương đô’i ổn định về mặt đời sô’ng, nhu cầu t́m về vơ’i nhau đă bă‘t đầu trở nên thu’c ba’ch; đo’ đây đă co’ những lời nhă‘n t́m bạn cũ trên ca’c ba’o Việt ngữ được phổ biê’n trên nhiều tiểu bang và ca’c quô’c gia nơi co’ đông người Việt cư ngụ, dầu sao cũng vẫn chỉ là những liên lạc lẻ tẻ giữa những bạn bè cùng lơ’p hoặc co’ quen biê’t nhau khi c̣n học chung ở Trường.

 

Bên cạnh đo’, một sô’ cựu Gia’o Sư cũng co’ những liên lạc vơ’i nhau trong t́nh đồng nghiệp cũ. Tâ’t cả những sinh hoạt riêng lẻ no’i trên đă là mô’i giây liên lạc cần thiê’t tạo thành nhân tô’ khởi đầu cho những lần họp mặt lơ’n rộng sau nàỵ Ca’c lần họp mặt (tại Hoa Kỳ) được ghi nhận như sau: (*)


- Năm 1988, nhân dịp Gia’o Sư Phạm Nghệ từ Louisiana sang thăm California qua lời mời của một cựu học sinh QGNT: chị Nguyễn thị Hồng (Chai). Buổi họp mặt này ngoài chị Hồng ra c̣n co’ ca’c Thầy Cô: Nguyễn lộc Thọ, Nguyễn huy Bảo (đă mâ’t), Bùi quô’c Tường, Vơ kim Sơn, Hoàng thị Lộc, Nguyễn thị thọ Dda, Lê thị Ẩn. Cựu Viện Pho’ Bùi trọng Chi (đă mâ’t) bị bịnh bâ’t ngờ nên phu’t cho’t không thể tham dự được.


- Mùa Hè năm 1990, buổi họp mặt lần này được tổ chư’c tại Công viên một dặm vuông (Miles Square Park, Fountain Valley, California) nhân dịp Ba’c Sĩ Cựu Viện Trưởng Trương khuê Quan (đă mâ’t) từ Hoà Lan sang thăm Hoa Kỳ. Lần họp mặt này đă co’ thêm một vài Thầy Cô mơ’i sang định cư: Thầy Vũ kim Chi, Thầy Hoàng đ́nh Lộc, Thầy Trần quô’c Gia’m, Thầy Nguyễn mạnh Cường, Thầy Nguyễn tri Văn, Cô Trần thị mạnh Quang và hai cựu học sinh: Nguyễn thị thủy Hạnh, Lê Phương.


- Tha’ng 11 năm 1990, một buổi họp mặt được tổ chư’c tại nhà hàng Mai Mai ở thành phô’ Long Beach nhân cơ hội Ba’c Bùi trọng Chi từ tiểu bang Oregon và Cựu Hiệu Trưởng trường QGNT Hoàng xuân Thiệu vừa mơ’i định cư ở Sacramento cùng gia đ́nh Thầy Lê quô’c Tâ’n từ Bă‘c California xuô’ng thăm. Ngoài ca’c Thầy Cô c̣n co’ khoảng 20 cựu học sinh và gia đ́nh. Đây là buổi họp mặt co’ sô’ người tham dự đông nhâ’t từ trươ’c đê’n naỵ.


- Tha’ng 6 năm 1991, một buổi họp mặt thu gọn được tổ chư’c tại tư gia của Thầy Lê quan Tâ’n gồm ca’c Thầy Cô và vài học sinh hiện đang cư ngụ quanh khu vực Bă‘c California; ngoài ra co’ sự tham dự của Ba’c Bùi trọng Chị Vâ’n đề nghĩa vụ Tương thân tương trợ cho ca’c Thầy Cô và ca’c cựu học sinh QGNT c̣n ở tại quê nhà đă được đề cập đê’n do Ba’c Bùi trọng Chi chi’nh thư’c đư’ng ra kêu gọi sự đo’ng go’p, căn bản dựa trên danh sa’ch ca’c Thầy Cô và một sô’ i’t cựu học sinh đă liên lạc được. Kê’t quả đă vượt khỏi dự liệu lu’c ban đầụ Một phần lơ’n sô’ tiền đo’ng go’p đă được một cựu học sinh chuyển về VN vào tha’ng 12 năm 1991.


Qua ca’c lần họp mặt trong t́nh thân giữa ca’c Thầy Cô và một i’t cựu học sinh QGNT nêu trên, đă dần dần nhen nhu’m một mục đi’ch muô’n cùng nhau thực hiện một việc ǵ để phần nào giu’p đỡ những người ke’m may mă‘n hơn trong tinh thần tương thân tương trợ; cụ thể trươ’c mă‘t là gia đ́nh ca’c Thầy Cô c̣n sinh sô’ng trong nươ’c đang gặp nhiều kho’ khăn. Thành quả lu’c đầu tuy c̣n khiêm nhượng nhưng lại là yê’u tô’ chi’nh đưa đê’n nhu cầu cần phải pha’t triển để duy tŕ. Trong một bư’c thư của Ba’c Bùi trọng Chi (đề ngày 6 tha’ng 2 năm 1992) gởi đê’n ca’c Thầy Cô để tường tŕnh về đợt giu’p đỡ đầu tiên co’ đề cập đê’n việc thực hiện một tờ Đặc san dự trù sẽ ra mă‘t vào tha’ng 3 năm 1992.

Đồng thời Ba’c Chi cũng thông ba’o chuyê’n viê’ng thăm vùng Nam Cali của Ba’c Sĩ Cựu Viện trưởng Trương khuê Quan từ Hoà Lan vào tha’ng 6/92. Nhân dịp này, Ba’c Chi co’ đề nghị ca’c gia’o sư hiện đang định cư ở vùng Nam Cali như ca’c thầy: Trần quô’c Gia’m, Nguyễn lộc Thọ, Bùi quô’c Tường cùng nhau tổ chư’c một buổi họp mặt dự trù vào khoảng đầu tha’ng 6. Cùng vơ’i la’ thư là danh sa’ch những Thầy Cô và ca’c cựu học sinh QGNT đă liên lạc được tại hải ngoại là 72 người (ti’nh đê’n thời điểm tha’ng 2/1992).

 

 

 

Một vài anh chị Cựu học sinh đă liên lạc và được ca’c thầy cho biê’t những kho’ khăn trong việc thực hiện tờ DS và ngỏ y’ nê’u được ca’c cựu học sinh ti’ch cực cộng ta’c may ra mơ’i hoàn thành được. Sau một vài lần gặp gỡ, go’p y’ vơ’i ca’c Thầy; từ dự định lu’c đầu chỉ là một bản tin đơn giản để Thông ba’o buổi họp mặt đo’n chào Ba’c sĩ Viện trưởng, sau cùng đă đi đê’n quyê’t định tổ chư’c một Đại hội QGNT đầu tiên kể từ sau năm 1975 (tại hải ngoại), đồng thời ra mă‘t một DS/QGNT.

 

Vơ’i lực lượng nhân sự khởi đầu là 5 người, qua những buổi họp mặt hàng tuần được â’n định, mô’i giây liên lạc dần rộng mở. Nhâ’t là sau khi “Đôi gịng chia xẻ” được phổ biê’n trên tuần ba’o Tiểu Thuyê’t tuần san sô’ ra ngày 26 tha’ng 3 năm 1992 tại Nam Cali (chị Nguyễn thị Minh Ngữ, chủ nhiệm, cũng là một cựu học sinh QGNT), và những giu’p sư’c của ca’c tờ ba’o điạ phương như: Người Việt (Nam Cali), Người Việt Tự Do (San Jose, Bă‘c Cali), Người Việt Tây Bă‘c (Seatle, Washing State), Hoa thịnh Ddô’n thời ba’o (Washington DC), tuần ba’o Vui, Thời Ba’o, Hoa T́nh Thương, Phụ Nữ Diễn Đàn.

 

 . . . . . .Tin tư’c được phổ biê’n nhanh cho’ng và lan rộng, sô’ lượng cựu học sinh ngày càng tăng, ca’c buổi họp hàng tuần ngày càng trở nên nhộn nhịp hơn, vui vẻ hơn và lẽ dĩ nhiên những đo’ng go’p y’ kiê’n về mọi lănh vực ngày càng trở nên thiê’t thực hơn. Điển h́nh là y’ kiê’n gây quỹ qua h́nh thư’c một buổi Dạ Vũ sau ngày DH đă được thực hiện, nhờ thê’ mơ’i co’ đủ khả năng tài cha’nh để Tổ chư’c Đại Hội và thanh thoả những chi phi’ tô’i thiểu, sô’ c̣n dư sẽ xung vào quỹ mà mục đi’ch chi’nh vẫn là chuyển về giu’p đỡ ca’c Thầy Cô và cựu học sinh QGNT tại quê nhà trong tinh thần tương thân tương trợ

 

Chỉ trong ṿng hai tha’ng, chu’ng ta đă co’ một danh sa’ch GD/QGNT tại hải ngoại là 205 người gồm 56 Gia’o sư và 149 cựu học sinh. Sau thời gian ba tha’ng chuẩn bị Vơ’i tâ’t cả nỗ lực và râ’t nhiều những đo’ng go’p từ khă‘p nơi, Đại hội QGNT lần đầu tiên - sau năm 1975 - tại hải ngoại cùng vơ’i việc pha’t hành tập Kỷ Yê’u mang chủ đề:” Trở Về Trường cũ, Vinh Danh Thầy Cô” đă được tổ Chư’c vào ngày 6 tha’ng 6 năm 1992 tại miền Nam tiểu bang Californiạ Sô’ người tham dự đươc. ghi nhận: 23 Thầy Cô và 66 cựu học sinh cùng gia đ́nh và quan kha’ch, nâng tổng sô’ lên 158 người lơ’n và khoảng 50 trẻ Em; về mặt tàI cha’nh sau khi đă trừ tâ’t cả chi phi’ c̣n dư khoảng $1,500 và đă gởi về VN làm ba lần: tha’ng 7, tha’ng 9 và tha’ng 11 năm 1992.

 

 

Thành quả tuy c̣n râ’t khiêm nhượng nhưng đă là những bươ’c đầu râ’t khả quan hư’a hẹn một tương lai pha’t triển lơ’n mạnh của GD/QGNT sau nàỵ


Để kê’t thu’c, xin mượn một đoạn trong thư của Ba’c Trương khuê Quan:
“ . . . . . . . . ca’c Thầy Cô và cựu học sinh Trường QGNT thương mê’n!
Ba’c vừa nhận được “Đôi gịng chia xẻ”, bản pho’ng ảnh của bư’c thư gởI cho quy’ vị Gia’o Sư và toàn thể anh chị em cựu Học Sinh QGNT, trong sự bàng hoàng thi’ch thu’. Bàng hoàng v́ co’ hơi bâ’t ngờ, tuy Ba’c Chi co’ cho hay, nhưng ḿnh tưởng đâu sẽ gặp lại vài anh em Gia’o Sư sang Mỹ định cư lèo tèo trong quận Cam, vơ’i cha’u Ngữ viê’t Tiểu Thuyê’t là cùng. Đọc xong nội dung bư’c thư, lại cảm nhận mư’c độ rộng răi hơn ba’c nghĩ. Ban Tổ Chư’c cô’ gă‘ng mời những ai, Thầy Cô cũng như học viên nam nữ, trong khả năng co’ thể đê’n dự được ngày Đại Hội, mang theo gia đ́nh. Chẳng co’ ai lượng định sô’ người tham dự là bao nhiêu; nhưng đọc xong “Đôi gịng chia xẻ”, chă‘c ai cũng phâ’n khởi hy vo.ng. Cuộc sô’ng nào cũng co’ hy vọng, v́ hy vọng là những sợ tơ dệt ra cuộc sô’ng . . . . . . . . . . . . . . . . .”


Thật vậy, phải chăng “T́nh thương và Hy vọng” là những yê’u tô’ mâ’u chô’t đă h́nh thành ra Viện Gia’o Dục QGNT của 45 năm về trươ’c!!!

 

Phạm Hữu Thừa 72

 

 

TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH ĐẠI HỘI QGNT 2003


Ý TƯỞNG NHEN NHÚM
Bắt đầu bằng buổi picnic học sinh liên trường ở San Jose năm 2001, hằng năm ở San Jose có buổi picnic vào cuối mùa hè với sự tham gia của hầu hết các trường trung học ở Việt nam trước năm 1975. Trường QGNT năm nào cũng tham gia tuy với con số ít ỏi hơn các trường khác. Năm 2001 đột nhiên con số cựu học sinh QGNT tham dự gia tăng hẳn lên và lại có cả các thày Phan văn Cự và thày Lê Quốc Tấn. Còn nhớ hình như có cả Trần Quảng Nam ca bài Mười Năm Tình Cũ trên sân khấu nữa.
Sau buổi picnic, anh Nguyễn Đức Như QGNT 68 kêu gọi mọi QGNT ở lại ngồi tại bàn picnic và bàn về việc “ phải làm một cái gì “. Anh chị em ngồi lại nói chuyện, thảo luận và rồi cũng không đề ra một điều gì cụ thể. Sau đó khoảng hai tuần, anh Như có mời mọi người lại nhà hàng Phở Bắc cuả anh sau giờ đóng cưả để thảo luận tiếp, lần này có các bạn Trần Quảng Nam, Mai Viết Khánh, Huỳnh Khương Trung, hai chị Nguyệt là Minh Nguyệt và Kim Nguyệt, cùng với anh Như trong tư thế sẵn sàng “ phải làm một cái gì “. Sau một hồi thảo luận anh chị em đều có quyết tâm sẽ thực hiện một Đại Hội QGNT vào năm 2002 và đề ra chương trình hoạt động đầu tiên là tôi sẽ lo phần tìm kiếm các cựu thày cô và học sinh QGNT vùng bắc California bằng cách sẽ đăng những lời nhắn tin trên hai tờ báo Thằng Mõ và Triều Thành ở San Jose, San Francisco và Sacramento. Nhưng chưa thực hiện được điều này thì biến cố 9/11 xảy ra.

Đợi đến năm 2002 thì mọi toan tính về Đại Hội đã chìm vào quên lãng. Lại tới cuối muà hè và picnic học sinh liên trường. Lúc đầu tôi không có dự định đi lần này, picnic bắt đầu lúc 10 giờ sáng thì tới khoảng 12 giờ trưa anh Huỳnh Khương Trung phone lại và kêu tôi tới cho vui, vì quân ta năm nay quá ít. Sẵn tiện có đứa em đang ở nhà chơi, tôi rủ đi luôn cho vui. Lần này tại bàn picnic đặc biệt có anh Phan Nhật Tân, một cựu trưởng ban báo chí trong ban đại diện hồi xưa, anh Tân mới định cư tại San Jose từ năm 1995 và nói là biết về QGNT qua liên lạc với Trần Quảng Nam. Anh Tân tại buổi picnic cũng kêu gọi anh chị em ngồi gần lại cùng bàn và đề nghị cùng tụ họp lại nhân dịp lễ Tạ Ơn và dự định sẽ kính mời các thày cô QGNT đến để các cựu học trò bày tỏ lòng tri ân.

QGNT YAHOO E-MAIL GROUP, PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN HỮU HIỆU
Tới khoảng tháng 10 trong lúc làm việc tại sở, thì nhận được e-mail của Đỗ Ngọc Vinh nói là mới thành lập một Yahoo group cho các bạn QGNT để anh em có chỗ liên lạc thông tin với nhau. Đây là lần đầu tiên nhận được e-mail của Vinh dù đã biết Vinh ở bang Oregon. Nhờ diễn đàn thông tin này mà anh em có thể “ gặp gỡ “ lại nhau sau gần 30 năm xa cách, nhất là với các bạn học chung lớp ngày xưa mà nay ở ngoài tiểu bang California như Phạm Văn Oanh, Đỗ Ngọc Vinh, Ninh Quốc Bảo.v.v... Những ngày đầu trên diễn đàn ôi thôi câu chuyện cứ nổ như bắp rang, anh em tha hồ kể lại chuyện người cũ trường xưa.

Thời gian gần đến ngày lễ Tạ ơn mà trên diễn đàn không thấy ai nhắc về buổi họp mặt ở San Jose như đã dự định. Dần dần tôi có nhắc đến và phản ứng của anh em qua e-mail trao đổi lẫn nhau là thấy ai ai cũng háo hức, hình như Nguyễn Hữu Thừa đã có dự định tổ chức một phái đoàn miền nam Cali lên chơi vào dịp này. Tuy nhiên buổi họp mặt cũng chưa hình thành được vì không biết làm ở đâu và làm ra sao. Thời gian vô định này kéo dài khoảng hai tuần và còn khoảng hơn một tuần nưã là tới ngày lễ Tạ ơn. Trong lúc ngồi với computer, tự nhiên tôi viết một e-mail và gởi cho diễn đàn QGNT là buổi họp mặt Thanksgiving sẽ được tổ chức tại nhà của tôi.

Buổi họp mặt rất là thành công, có tới ba mươi mấy người tới, đặc biệt có Lưu Văn Phúc học chung lớp 12B2, biết ở cùng San Jose mà chưa bao giờ gặp, rồi Vũ Khắc Thông đã gặp nhiều lẩn mà không biết học QGNT. Có vợ chồng anh Ngô Chí Thiềng từ miền nam Cali lên và rất đông các QGNT ở San Jose lần đầu đến dự.

DỰ ĐỊNH VỀ ĐẠI HỘI BẮT ĐẦU RÕ NÉT, BẮC HAY NAM CALI ?
Ý tưởng về đại hội bắt đầu nhen nhúm và được bàn cãi trong những giây phút lắng đọng tại buổi họp mặt. Ý kiến đưa ra là sẽ tổ chức đại hội ở đâu, tại bắc hay nam Cali. Phần đông anh em đều đề nghị là nên để anh em miền nam Cali thực hiện vì nam Cali đã có kinh nghiệm tổ chức và quan trọng hơn là miền nam Cali sẽ hấp dẫn được nhiều QGNT cư ngụ ngoài tiểu bang Cali vì miền nam Cali có nhiều chỗ cho việc đi chơi và đi du lịch hơn. Chỉ có hai ba người là đề nghị làm đại hội ở San Jose, và người cổ võ mạnh nhất là anh Ngô Chí Thiềng. Tuy nhiên cho tới khi buổi tiệc tàn, anh em đi về hết cũng chưa có một quyết định dứt khoát về điạ điểm cuả đại hội nếu được tổ chức.

Thế rồi thời gian qua, Noel rồi Tết Tây...trên diễn đàn Yahoo QGNT anh em vẫn nói về đại hội nhưng chưa ai đề cập đến điạ điểm. Tôi có gởi một e-mail và trình bày nỗi ưu tư của mình. Còn nhớ là Đỗ Ngọc Vinh trong một e-mail có đề nghị chọn nam Cali, và tiếp theo anh Huỳnh Khương Trung có trình bày là kỳ này hãy để San Jose gánh vác, kỳ tới nữa sẽ quay về lại nam Cali. E-mail cuả anh Trung như là một quyết định ngầm sau cùng của anh em vì sau đó không còn thấy ai lên tiếng nữa. Riêng tôi thấy rất ái ngại, ngại là vì mình chưa có chuẩn bị gì hết, ít ra phải tìm được một nhà hàng hay một nơi có thể chứa từ 150 tới 200 người cái đã .

CHUẨN BỊ
Trong thời gian này, một buổi chiều tôi có đi tham dự một seminar tại phòng hội cuả một khách sạn tại San Jose. Chợt có ý nghĩ là nếu được làm đại hội QGNT tại một khách sạn thì quá lý tưởng, bà con ở xa có thể thuê phòng ở ngay trong khách sạn, dùng phòng hội làm đại hội, tiệc tùng thì khách sạn sẽ lo luôn, nếu bà con thích món ăn Việt nam hơn thì mình có thể catering. Tưởng tượng ra cảnh anh chị em QGNT xum họp lại sau mấy chục năm xa cách tay bắt mặt mừng vang dội cả dãy hành lang lobby của khách sạn sao mà hạnh phúc quá, tôi liền tiến lại quầy và hùng dũng hỏi thăm các chi tiết về book khách sạn, thuê mượn phòng hội cho reunion, catering...Hôm sau về nhà tôi có gọi và so sánh giá cả với ba hay bốn khách sạn khác nhau.

Tôi có e-mail các tin tức này trên diễn đàn nhưng phản ứng cuả anh em có vẻ không sốt sắng lắm. Tới cuối tháng giêng cũng trên e-mail tôi có mời anh chị em San Jose, vào chiều chủ nhật, hãy lại quán cà phê Coffee Lovers để họp bàn về đại hội. Trên đường đến tiệm cà phê này, tôi cũng không hy vọng là sẻ có nhiều anh em đến vì hình như không có ai đáp lời mời của mình trên diễn đàn cả. Tới bãi đậu xe thì đã thấy vợ chồng chị Minh Nguyệt đang tìm chỗ đậu xe. Cả ba chọn ngồi uống cà phê ngoài patio của tiệm, sau đó có anh Trung và anh Nguyễn Ngọc Quỳnh đến. Lưu văn Phúc đến sau không gặp vì cả bọn đã di chuyển lên trên lầu vì trời bắt đầu lạnh và Phúc thì không biết quán có lầu. Khi anh Trương Đại Hồ, phu quân cuả chị Nguyệt, biết chúng tôi đang cần tìm nhà hàng cho đại hội thì anh mau mắn dùng phone tay liên lạc với những nhà hàng anh biết và hỏi chi tiết về việc đặt chỗ. Cả hai nhà hàng anh Hồ gọi thì không nhà hàng nào trống tối thứ bảy, một thì chịu cho tối thứ sáu, một thì tối chủ nhật hay trưa chiều thứ bảy với điều kiện phải xong trước 5 giờ chiều. Đặc biệt trong buổi uống cà phê này, hôm đó có Trịnh Hoài Nam, Nguyễn Duy Linh và Phạm Hữu Thưà có gọi lên hỏi thăm về tình hình đã đi đến đâu. Chiều hôm đó anh em nam Cali cũng tụ họp nhau ở nhà anh Vũ Quang Anh ở San Diego thì phải.

 



TÌM ĐƯỢC ĐIẠ ĐIỂM, NGÀY GIỜ
Qua ngày hôm sau về nhà trong cố gắng tìm hỏi thêm một hay hai nhà hàng nữa, thì tôi tìm được số phone cuả nhà hàng Thành Được. May mắn thay nhà hàng này còn trống tối thứ bảy 9̣ tháng 8 và tính giá cũng bằng hay hơn hai nhà hàng kia chút xíu. Có hỏi xem họ còn trống thứ bảy 2 tháng 8 không, muốn ngày này hơn vì là thứ bảy đầu tháng 8 và vì hai bạn Phương và Khoa bên Dallas có nhắc trên diễn đàn là bên Texas, học sinh bắt đầu đi học giữa tháng 8. Tiếc là ngày 2 tháng 8 đã có người đặt. Trước khi chính thức nhận lời, anh em có bàn với nhau là nên thương lượng lại về giá cả. Anh Quỳnh là người có quen biết chút xíu với một trong các chủ nhân cuả nhà hàng nên hăng hái nhận nhiệm vụ. Ngày hôm sau anh Quỳnh cho biết là họ chịu giảm giá bằng cách bớt tính tiền thuế đi. Và sau khi dọ ý với Minh Nguyệt, tất cả anh em đều OK Thành Được.

Chuyện kế tiếp là chuyện đặt tiền cọc cho nhà hàng. Giữa tháng hai, trong tuần lễ Presidents’Day, tôi đã dự định là sẽ đi vacation một tuần. Lo ngại là nếu mình không đặt tiền cọc, không biết là nhà hàng có giữ chỗ cho mình không, nên trước ngày đi vacation tôi lại nhà hàng Thành Được ăn trưa và đặt check deposit cho nhà hàng. Hôm đó tại nhà hàng có thấy nghệ sĩ Thành Được đang sửa soạn sân khấu cho một show văn nghệ nào đó.

THÔNG BÁO CHÍNH THỨC
Khi về nhà với sự hứng khởi, tôi liền lên diễn đàn và gởi e-mail chính thức thông báo ngày giờ và địa điểm cuả Đại Hội Quốc Gia Nghĩa Tử năm 2003 sẽ được tổ chức vào ngày thứ bảy, mùng 9 tháng 8 tại nhà hàng Thành Được.

Thời gian và điạ điểm cho đại hội đã lo xong, bây giờ có thể bắt tay vào việc soạn thảo chương trình. Trịnh Hoài Nam có ý kiến là kêu gọi anh em ghi tên đóng tiền trước và làm sẵn một bản Excel spreadsheet để ghi tên anh em. Trên diễn đàn phiá dưới mỗi trang e-mail có ghi tên và địa chỉ cuả chị Minh Nguyệt để anh chị em ghi tên và gởi check về. Anh em có đề ra hạn chót ghi danh và đóng tiền trên diễn đàn là ngày 15 tháng 4 cho dễ nhớ. Đợi đến cả một hai tuần sau mới có người đầu tiên ghi danh là anh Nguyễn Ngọc Quỳnh.

BẮT ĐẦU CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG
Cũng trong weekend đó anh em San Jose quyết định gặp nhau tại nhà anh Quỳnh để bàn về chương trình cho đại hội và anh Quỳnh có nhã ý là cho sử dụng nhà của anh để làm tổng hành dinh cho ban tổ chức đại hội. Tại nhà anh Quỳnh hôm đó có những anh em Trần Quảng Nam, Khánh, Thông, Lưu Văn Phúc, anh Quỳnh, anh Trung, chị Minh Nguyệt. Sau khi được anh Quỳnh hướng dẫn thưởng lãm khu vườn có hơn 100 cây hoa quỳnh và 50 loại hoa lan, cũng như được thưởng thức nhâm nhi những ly trà ngon anh em bắt đầu đi vô chi tiết của chương trình. Đầu tiên anh em sốt sắng đóng tiền tham dự đại hội cho mình và gia đình, sau đó theo đề nghị cuả anh Trung mỗi người đóng thêm 100 vào quỹ đại hội cho quỹ có vẻ có tiền chút xíu. Không hiểu sao hôm đó anh em nào cũng có checkbook trong túi. Tới chiều tối sau khi chị Nguyệt về thì gọi được vợ chồng thày Lê Quốc Tấn đến chơi và cũng thật tình cờ, anh Quỳnh mang máy hình ra hứng chí chụp vài bức hình làm kỷ niệm. Một trong những tấm hình này được cho lên trang web site phần Committee.

Tuần sau đó là việc chính thức gởi thiệp mời cho các thày cô. Trong tay có mỗi một danh sách điạ chỉ giáo sư QGNT mà anh Ngô Chí Thiềng soạn thời gian đại hội kỳ 1, năm 1992. Tôi gởi e-mail lên diễn đàn và hỏi anh chị em có biết tin tức của bất kỳ thày cô nào. Có nhiều e-mail trả lời và phần nhiều chỉ cho số điện thoại, có chị Nguyễn Thị Cẩm Hồng cho danh sách 4 vị giáo sư trong đó có cô Phạm Thị Lộc. Và sau đó cô Phạm thị Lộc cũng cho tôi rất nhiều địa chỉ cùng hình ảnh cuả các thày cô khác. Anh Quỳnh cũng là người cung cấp hầu hết tin tức thày cô vùng bắc Cali và sốt sắng điện thoại cho từng vị một.

Ngày đầu tiên tôi gởi đi 17 phong bì, trong mỗi phong bì ngoài thiệp mời , còn có một bức thơ nhắn với các thày các cô nếu biết được tin tức cuả các thày cô khác cho chúng em xin để chúng em gởi thiệp mời. Lời phúc đáp đầu tiên nhận được là của thày Trương Thế Khôi, trong e–mail gởi cho, thày viết rất là cảm động và hứa sẽ lục lại tìm kiếm địa chỉ cuả các thày cô khác. Thày nhận lời tham dự đại hội đầu tiên là thày Huỳnh Văn Ân ở Seattle. Tự nhiên một buổi tối tình cờ tôi thấy số điện thoại cuả thày, và gọi ngay cho thày, không có thày ở nhà, nhưng có con gái thày bắt phone. Sau một màn giới thiệu, tôi hỏi xem là thày Ân có nhận được thiệp mời đại hội QGNT chưa, cô con gái trả lời là ba con đã nhận và ba con chắc chắn sẽ đi dự, và đang lo book vé máy bay.

Như là vết dầu loang, càng ngày càng có nhiều tin tức cuả các thày cô khác và của cựu học sinh, tổng cộng tôi đã gởi khoảng trên dưới 100 thiệp mời. Cho tới cách đây vài ngày, 15/6, Huỳnh Khương Nghĩa còn cho địa chỉ của cô Lê Thị Hoa, một cô giáo môn nữ công gia chánh đang ở bên Úc Đại Lợi.

Đến kỳ họp lần thứ hai tại nhà chị Minh Nguyệt vào khoảng cuối tháng tư thì có hai sự kiện quan trọng cho đại hội đã xảy ra. Anh em thấy nhà chị Nguyệt đàng sau có cái patio thật rộng và đẹp, từ patio này ta có thể nhìn toàn cảnh thành phố San Jose bên dưới. Điều này làm nảy sinh ra ý định tổ chức buổi họp mặt tối thứ sáu 8/8 tại đây thay vì tại nhà Trần Quảng Nam như đã dự liệu. Trần Quảng Nam là người soạn ra chương trình “ ăn chơi ” ba ngày và đã được phổ biến trên diễn đàn. Sự kiện quan trọng thứ hai là tôi chợt nói với anh Huỳnh Khương Trung là chắc kỳ này về nhà em phải thực hiện một web site dành riêng cho đại hội. Ý tưởng về web site cho đại hội mới được nhen nhúm trong đầu mấy ngày qua, tuy nhiên khi nói ra ý định cho một người khác thì chắc chắn là mình phải thực hiện rồi.

Khi nghĩ đến web site, mình biết chỉ bỏ ra chút ít thời gian lúc đầu, nhưng khi thành hình rồi thì sẽ có lợi ích vô cùng. Vì bất cứ ở đâu, nếu có một máy computer và Internet access là người ta có thể vào coi những tin tức mới nhất về đại hội, không phải mất công gọi phone, nhấc phone, thơ qua thơ lại, e-mail cho từng người. Hơn nữa, lúc đó tôi cũng có sẵn một web site do chính mình đăng ký với Yahoo.
 


WEB SITE ĐẠI HỘI RA ĐỜI
Sẵn có trong tay chương trình ba ngày đại hội, cùng một số hình ảnh QGNT cũ trước năm 1975, tôi bắt đầu thực hiện cái web site có tên là maikcomputing.com. Sau khi upload lên, tôi có gởi e-mail cho tất cả các bạn trong ban tổ chức coi xem có cần sửa đổi thêm bớt gì không. Ngày hôm sau thì gởi e-mail trên diễn đàn và giới thiệu cái web site chính thức với tất cả anh chị em. Chỉ trong mấy ngày đầu đã có hơn hai trăm lượt người vào thăm trang nhà. Khoảng hai tuần sau thì theoTrịnh Hoài Nam thấy web site đẹp quá nên Nam đã đăng ký tên quocgianghiatu.com và nói tôi upload lên web site này. Mục đích chỉ là cho anh em dễ nhớ cái tên và không phải đánh vần cái tên cũ mỗi lần anh em hỏi thăm. Từ từ số người vào thăm quocgianghiatu vượt qua con số của maikcomputing dù là sinh sau đẻ muộn hơn hai tuần. Tính đến ngày 22 tháng 6, thì đã có hơn 4000 lượt người vào xem cả hai web site này. Cũng phải đề cập thêm ở đây là Phạm Văn Oanh đã giúp soạn cho tờ Thư Mời tham dự đại hội được trang trọng trình bày trên trang nhất của web site.

ĐẶC SAN QGNT 2003
Ngay từ những ngày đầu anh em đều có ý nghĩ là sẽ thực hiện một tờ đặc san QGNT ra mắt trong dịp đại hội theo như truyền thống của hai kỳ đại hội trước. Cho tới thời gian đầu tháng 5, trong khi chương trình đại hội được xúc tiến một cách mạnh mẽ thì tờ đặc san vẫn im hơi lặng tiếng, mặc dầu so sánh với đại hội thì tờ đặc san có nhiều thuận lợi hơn, như anh Lê Hồng Đa đã có hứa là sẽ giúp đỡ cho phần nhà in và Nguyễn Duy Linh thì đã có được 1000 dollars tiền quảng cáo. Cái khó là chưa có ai đứng ra nhận trách nhiệm cho việc thực hiện. Sau những e-mail qua lại trên diễn đàn, Đỗ Ngọc Vinh đề nghị bước đầu thành lập một ban biên tập tạm thời và soạn ra một thông báo chính thức kêu gọi mọi người tích cực tham gia bằng cách hăng hái gởi bài về. Thông báo nhanh chóng được đưa lên trang web site với địa chỉ của Trịnh Hoài Nam cho bà con gởi bài và hạn chót nhận bài là ngày 15 tháng 6. Đồng thời Trịnh Hoài Nam cũng thực hiện một Yahoo Group cho ban biên tập cũng là nơi anh em lưu trữ các bài viết do thày cô và các QGNT gởi về.


QGNT TEXAS
Thời gian này, bên Texas dù đã gởi thiệp mời cho nhiều thày cô vùng Houston, nhưng chưa tìm ra một QGNT nào. Ở Dallas thì biết có Tăng Lý Công, và thày Hoàng Xuân Thiệu có cho số phone của một học sinh QGNT bên Texas và nói chị này rất mong muốn biết về ngày đại hội QGNT. Chưa kịp gọi điện thoại cho chị thì chị đã e-mail cho và cho biết tên là Lưu Phương và ở một thành phố rất xa Houston là thành phố Corpus Christi. Bỗng một hôm Tăng Lý Công cho biết có anh Ninh Vi là QGNT khóa đàn anh mới liên lạc được muốn tham gia diễn đàn QGNT. Trường hợp anh Ninh Vi và Công gặp nhau cũng là sự tình cờ hiếm có. Công và gia đình mới dời chỗ ở từ New Orleans qua Dallas, qua Dallas Công làm việc nhân viên chính ngạch cho Sở Hưu Bổng, một bữa anh Ninh Vi có đến văn phòng này và được sắp đặt gặp Công. Khi nói chuyện với nhau, Công mới biết thân phụ cuả anh Ninh Vi là tử sĩ và anh Ninh Vi cũng là cựu học sinh QGNT. Khi biết là sắp có đại hội bên California anh Ninh Vi đã sốt sắng vận động các tờ báo và đài phát thanh bên Dallas thông tin về đại hội. Cho đến một tuần trước lễ Memorial Day thì Công gọi qua cho biết là đã có mười mấy cựu học sinh QGNT gọi . Cao điểm là weekend của tuần lễ Memorial Day, cuối tuần đó nhân dịp Trần Quảng Nam và Tú Minh qua Dallas hát cho chương trình văn nghệ của hội Quảng Đà, Tăng Lý Công có tổ chức buổi họp mặt tại nhà để họp mặt các QGNT trong vùng và cũng để đón tiếp Trần Quảng Nam. Trước đó có hai hay ba ngày lại nhận được tin Phạm Văn Đức, trưởng ban đại diện học sinh QGNT niên khoá 71-72, cũng ở vùng Dallas. Chỉ trước đó một tuần khi gặp Đèo Văn Bắc mới từ Việt Nam qua, anh em nghe phong phanh là Phạm Văn Đức còn đang làm ruộng ở Long Khánh hay Long Thành gì đó. Phải nói thêm là chị Vũ Thị Thi cũng là người năng nổ trong việc vận động anh chị em bên Texas. Diễn đàn QGNT kể từ khi có chị Thi gia nhập thì đột nhiên tưng bừng vui vẻ hẳn lên, vì trước đó ít có hay hoạ hoằn lắm mới có một vị đàn bà con gái xuất hiện trên diễn đàn. Chị Thi được anh Ninh Vi phong làm Sư Mẫu do sự vui vẻ và nối kết anh chị em Texas ghi tên tham dự đại hội thật đông.

Cuối tuần sau ngày Memorial Day thì anh chị em bên Texas lại có buổi họp mặt khác tại thành phố Austin và lần này thì có sự tham dự cuả thày Nguyễn Văn Thơm và rất nhiều các anh chị em từ Houston lên.

Cũng trong thời gian này thì tại San Jose anh em cũng tìm được thêm nhiều QGNT và có quây quần bên nhau đón tiếp hai người bạn từ Việt nam mới sang là Đèo Văn Bắc va` Nguyễn Thị Kim Khánh.. Hình ảnh của tất cả các buổi tụ họp bên Texas và California được trình bày trên trang web site khiến cho trang web trông có vẻ rất phong phú và khởi sắc.

Thời gian này thì con số thày cô và học sinh QGNT cho biết là sẽ tham dự đại hội đã lên tới gần 175 người, không ngày nào là tôi không vô trang web và cho thêm tên người tham dự. Ngay tại những buổi họp mặt kể trên, điện thoại của anh Huỳnh Khương Trung reo tới tấp với những QGNT khắp nơi gọi đến, đặc biệt của các bạn bên Minosotta, Chicago và Texas... Có nhiều bạn do nghe được trên radio hay nghe anh em bà con cho biết về cái web site. Ai ai cũng cho biết là rất ngạc nhiên và cảm động khi nhìn lại được những hình ảnh cảnh cũ người xưa cũng như đọc được tên những người bạn học cũ.

RADIO TIẾNG NƯỚC TÔI VÀ ĐẠI HỘI
Cho tới khi con số ghi danh tham dự gần được hai trăm thì có một sự việc khác cũng rất hào hứng là anh em lên đài radio Tiếng Nước Tôi để được phỏng vấn về đại hội. Do sự quen biết trước cuả Nguyễn Duy Linh và sự ân cần của Nghiêm Văn Minh bên Paris, đài radio Tiếng Nước Tôi cho QGNT chúng ta một chương trình nói về ngày đại hội trong vòng 45 phút. Khi nhận được tin về ngày lên đài do Linh cung cấp, tôi đã nhờ Đỗ Ngọc Vinh soạn thảo ra chương trình vì biết Vinh rất là nghề trong những vấn đề viết lách như thế này. Tới ngày phỏng vấn thì chị Minh Nguyệt và tôi tới nhà Trần Quảng Nam, có cả Vũ Khắc Thông đến để ủng hộ tinh thần. Cả Thông và Nam cho biết là rất ngại “ lên đài ”; đây cũng là lý do anh em San Jose cứ chần chừ mãi. Cuộc phỏng vấn diễn ra tốt đẹp, tuy nhiên chị Diễm Hương đài TNT có bỏ sót nhiều câu đã ghi sẵn và thêm vô nhiều câu hỏi không có trong chương trình do Vinh soạn. Phỏng vấn xong Thông rủ anh em lại nhà hàng Vũng Tàu ăn tối như là ăn mừng một công việc đã được hoàn thành, từ nay anh em San Jose khỏi phải lo lắng suy nghĩ nữa.

30 NĂM MỚI CÓ NGÀY NÀY
Cho đến hôm nay, ngày chủ nhật 22 tháng 6 thì tổng kết đã có 210 người ghi danh tham dự đại hội, một con số cao hơn dự tính lúc đầu. Cầu mong cho mọi chuyện được thuận buồm xuôi gió cho tới ngày 9 tháng 8, ngày đại hội. Hôm nay cũng được nói chuyện điện thoại với cô Dương Chi sau khi anh Sơn từ Houston gọi qua và cho số điện thoại cuả cô. Đây là lần đầu được nói chuyện với cô sau đúng 30 năm, những ngày này năm 1973 là những ngày cuối cùng chúng tôi còn học với cô trong lớp Anh văn lớp 12B2 và là những ngày cuối cùng dưới mái trường thân yêu QGNT.

Mai Viết Khánh
San Jose June 22 2003



 

 

 

Mọi đóng góp bài vở, tài liệu, hình ảnh cho Tập Kỷ Yếu 50 Năm QGNT xin liên lạc về:

Email: kyyeu2013@yahoo.com

http://quocgianghiatu.com

 

 

 


 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thời gian trôi chày không ngừng. Không ai tắm hai lần trong cùng một ḍng sông (Heraclitus) Và vũ trụ cũng không thôi biến dịch. Ba mươi năm băi biển hoá nương dâu. Vướng mắc giữa hai ḍng chảy ấy, con người, sống, để trải nghiệm, để chứng tri, để tôn vinh và thương xót cho những đổi thay. Sự kiện, tự nó đă mang tính chất thời gian và không gian. Dưới con mắt nhân gian, sự kiện trở nên chuyện kể để lưu truyền. Gia đ́nh có phả hệ, quốc gia có lịch sử. Và những biên niên, tùy theo khuôn khổ của đoàn nhóm, theo tính chất của tập thể mang những tên gọi khác nhau.

Ở đây chúng ta nói về kỷ yếu. Như tập hợp những mốc dấu để con người có điểm quy hồi. Chúng ta không có duyên may gần gũi nhau dài lâu, nhưng có nhiều cơ hội để gặp gỡ và hồi niệm. Chúng ta riêng lẻ, đă có những tháng năm sống và chia sẻ theo đúng nghĩa đơn sơ nhất của ngôn từ. Chẳng cần phải kể lại những khó khăn, đau xót của cùng quẫn và chia ĺa, nhưng nơi những con người đă nếm, trải, chung, chia, đă nẩy sinh một mối dây liên kết tuy có mong manh song chẳng phải là không bền chắc. Những chuyến công tác, những kỳ trại hè, những lần dă ngoại gần xa, và cả những lần mang chuông đi đấm xứ người, anh chị em chúng ta đă chúng tỏ được t́nh yêu thương đùm bọc, và những cố gắng vươn lên đến những hạn cực cao vời.

Kỷ Yếu. Như một tấm gương để chúng ta soi t́m lại trong ḍng sông kỷ niệm, h́nh bóng của ḿnh trong chuỗi dài của đổi thay hai chiều thời không nghiệt ngă, mà chúng ta những người nằm trong giao điểm một cách t́nh cờ, đă tham dự hết ḷng với những khóc cười trôi nổi. Xin cảm ơn những ngẫu nhiên mà định mệnh đă dành cho ta một lối mở vào tương lai từ những ngặt nghèo trong quá khứ. Và cảm ơn sự bao dung của chuyện kể để chúng ta có một chỗ để quay về, với những thân t́nh, h́nh ảnh, và những ḍng chữ sẽ thấm vào hơi thở, như một sưởi ấm giữa khi lạnh lẽo của cuộc đời.

 

 

ĐÓNG GÓP BÀI và TÀI LIỆU cho KỶ YẾU

Kính mong quý thầy cô và học sinh QGNT đóng góp bài vở cho Tập Kỷ Yếu QGNT qua các câu gợi ý sau:

Cho Quý Thầy Cô và Nhân Viên:

    
1. Sơ lược tiểu sử.
2. Năm tháng dạy học ở VGDQGNT.
3. Kỷ niệm đáng nhớ nhất về VGDQGNT.
4. Những sự kiện c̣n giữ lại trong kư ức liên quan đến VGDQGNT.   
   
Cho Cựu Học Sinh:  


1. Bạn bắt đầu ghi danh vào học trường QGNT ra sao? Giai đoạn từ lúc cha tử trận hay bị thương cho tới lúc nhập học tại trường?

 

2. QGNT với bạn so với các trường Trung học khác hay hơn hay dở hơn?


3. Sinh hoạt nào khiến bạn nhớ măi QGNT?

    
Mọi đóng góp bài vở, tài liệu, hình ảnh cho Tập Kỷ Yếu 50 Năm QGNT xin liên lạc về:

Email:
kyyeu2013@yahoo.com

 


 

TÂM THƯ KÊU GỌI ĐÓNG GÓP BÀI VỞ CHO KỶ YẾU

Kính thưa Quư Thầy Cô và anh chị em QGNT

Thay mặt cho Ban Biên Tập Kỷ Yếu 50 năm QGNT, chúng tôi xin tŕnh bày t́nh h́nh về dự án Kỷ Yếu 50 năm QGNT.

Ị Diễn tiến:

- Đă từ lâu, trên diễn đàn này cũng như tại các buổi gặp gỡ ở ngoài, nhiều anh chị bày tỏ sự mong muốn có một tập kỷ yếu cho ngôi trường mẹ QGNT.

- Việc thực hiện Kỷ Yếu là một trong những mục tiêu chính cuả BĐ GDQGNT nhiệm kỳ 2007-2011, và đă được phát động từ sau đại hội QGNT 2009. Ban Biên Tập tạm thời đă được thành lập và các bài vở tài liệu, h́nh ảnh đă được thu thập. Các anh chị đă thực hiện các cuộc đi thăm và phỏng vấn quư thầy cô làm tài liệu cho Kỷ Yếụ

- Dự kiến KỶ Yếu sẽ được phát hành vào năm 2011. Tuy nhiên sau khi tham khảo ư kiến cuả thày cô và các anh chị có đề nghị là nên chờ tới năm 2013 cho đúng với chủ đề 50 năm QGNT (1963-2013).

- Tại đại hội vưà qua nhân dịp được tiếp xúc với thầy Nguyễn Lộc Thọ, chúng tôi có dịp nói chuyện với thầy và xin ư kiến về project Kỷ Yếụ Thật là may mắn khi biết Thầy làmột trong các vị chủ trương và đóng góp rất nhiều cho các tờ đặc san kỷ yếu Hậu Nghiă, thầy có cho chúng tôi xem những quyển kỷ yếu này và đă góp ư cho nội dung Kỷ Yếu.

- Nhân dịp QGNT VN với không khí rộn rịp Ngày Tri Ân Thầy Cô cũng như dịp Lễ Tạ Ơn sắp đến, chúng tôi mạnh dạn tái phát động chương tŕnh thực hiện Kỷ Yếu và thành tâm mong mỏi quư Thầy cô và quư anh chị sốt sắng tham gia bằng cách gởi bài về:

 kyyeu2013@yahoo.com


GÓC THẦY CÔ

Chân Dung Thầy Huỳnh Thành Khiết - Giáo Sư Hội Họa

 

 

HỒI TƯỞNG VỀ MỘT MÁI TRƯỜNG

Là một giáo sư, được động viên vào sĩ quan QLVNCH. Sau tết Mậu Thân, tôi được biệt phái về Viện Giáo Dục QGNT tháng 11/1968, và được viện Giáo Dục QGNT bổ nhiệm phụ trách pḥng Công kỹ nghệ của trường THQGNT cùng với GS Ôn Tấn Lượng.

Đến trường TH, mở cửa pḥng ra, một quang cảnh hỗn độn, dụng cụ máy móc ngổn ngang, tất cả đều do cơ quan giáo dục của Hoa Kỳ viện trợ. Tôi và thày Lượng phải sắp xếp lại những dụng cụ máy móc, dùng để dạy mộn nào, th́ xếp chung lại với nhau cho gọn gàng, ngăn nắp. Nhiệm vụ của pḥng công kỹ nghệ là dạy các môn: kỹ nghệ họa, mộc, g̣, hàn, máy dụng cụ, cơ khí, điện. Tất cả các môn đều có máy móc và dụng cụ (riêng môn máy dụng cụ và cơ khí th́ chưa v́ thiếu nhà xưởng và dụng cụ giảng dạy).

Những năm đầu chưa tổ chức giảng dạy, pḥng công kỹ nghệ phụ trách dạy cho các em thuộc trường Phổ thông, muốn trau dồi thêm nghề nghiệp th́ ghi danh theo học. Ngoài pḥng công kỹ nghệ, trường c̣n có các ngành học khác như: kế toán, đánh máy, ấn loát, kinh tế gia đ́nh (dành cho nữ sinh). Mục đích của trường TH là đào tạo một học sinh, sau khi học hết chương tŕnh (lớp 12-lấy bằng tú tài TH), nếu không vào được đại học, các em có đủ tŕnh độ, khả năng làm được những công việc như: thư kư đánh máy, nhân viên nhà in, phục vụ kinh tế gia đ́nh cùng các ngành nghề chuyên môn khác: thợ mộc, g̣ hàn, cơ khí, điện, máy công cụ, đồ họa ...

Chương tŕnh học của trường là theo chứng chỉ, cho nên khi đến lớp 12, phải hoàn tất các chứng chỉ của 3 năm học cuối mới được cấp văn bằng Tú tài TH. Trường THQGNT khai giảng do thày Trần Ngọc Hồ làm Hiệu trưởng, thày là người luôn sát cánh cùng với các thày cô của trường, hoạch định chương tŕnh giảng dạy sao cho việc tiếp thu tốt nhất cho học sinh. V́ đây là 1 chương tŕnh hoàn toàn mới, do cơ quan giáo dục của Hoa Kỳ tài trợ, giai đoạn đầu gặp nhiều khó khăn, thày Hiệu trưởng luôn động viên các thày cô cố gắng hoàn thành nhiệm vụ giảng dậy, giải quyết hết sức t́nh lư với các sự cố. Thày luôn tiếp xúc thân thiện và yêu thương học tṛ, nên được sự mến mộ từ các em.

Rồi biến cố 1975 xảy đến, thày cô và các em mỗi người một ngă! Tôi phải rời khỏi ngôi trường thân yêu mà ḷng không khỏi bồi hồi cảm xúc, ngôi trường với hơn 7 năm gắn bó, biết bao nhiêu kỷ niệm. Đến 24/6/75 tôi phải đi theo lệnh gọi (cái gọi là cải taọ!), thày tṛ kể từ ngày ấy lại càng xa hơn. Ở trong trại "cải tạo", lúc nào tôi cũng nhớ và nhắc đến các em với bạn cùng cảnh ngộ. Ngày tháng trôi đi, năm này đến năm khác kéo dài măi trong trại tù, và rồi một ngày nào đó tôi cũng phải được măn hạn tù.

Sau 20 năm, tôi cũng được trở lại Sài g̣n, mọi thứ đổi khác nhiều quá, tên đường cũng đổi, quang cảnh cũng đổi, và rồi biết bao biến đổi khác. Ngôi trường nay đi bên ngoài, nếu không chú ư th́ cũng chẳng biết ở đâu, v́ những ngôi nhà cao che khuất và trường cũng đổi tên. Ở Sài g̣n hơn 10 năm sau khi ra tù, tôi không gặp được ai nữa kể cả thày cô, các em học sinh sau bao năm xa cách, nay các em đă trưởng thành và hoạt động trong mọi lănh vực và nghề nghiệp. Nhưng trong rủi lại có cái may, khi ở trại tù Xuân Phươc - Đồng Xuân - Phú Yên, tôi gặp em cựu học sinh QGNT cùng chung trại, em cũng nh́n ra được tôi, thế là thày tṛ cùng hội ngộ cùng nhau, nhờ đó mà sau này tôi gặp lại được các em sau 35 năm xa cách.

Nói đến các em ở Sài g̣n,tôi lại nhớ đến các em ở Cần thơ. Trường QGNT Cần thơ tọa lạc trên mảnh đất nằm sát bên con đường vào Nghĩa trang quân đội Cần thơ, trên con đường Cần thơ đi B́nh thủy. Tôi và thày Lượng lo mọi công việc để chuẩn bị tổ chức ngày khai giảng năm học đầu tiên 1971-1972 do thày Chuyên từ trường trung học Long Xuyên được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng. Sau khi có thày Chuyên rồi, tôi và thày Lượng lại trở về trường THQGNT Sài g̣n. Trường QGNT Cần thơ cũng có khu nội trú, dành cho các em thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau biến cố 1975, các em bây giờ đang ở đâu, mà trong số các em về dự lễ TATC, hầu như đều có mặt chỉ vắng bóng thày cô và học tṛ QGNT Cần thơ?! Thày cô và các em hăy liên lạc về ...

Nếu kể lại sau 75 đầy sóng gió, đă đè nặng lên hai vai thày cô và các em, th́ kể sao cho hết, v́ chúng ta là người thua cuộc! Người thua cuộc luôn bị thiệt tḥi về mọi mặt, nhất là chính trị và kinh tế. Hồi tưởng lại thời gian qua, dưới mái trường thày tṛ vui vẻ, hồn nhiên của một ông thày trẻ và đám học tṛ nhỏ ... C̣n nay, thày tṛ ta cũng vui vẻ hồn nhiên của một ông thày già nua, học tṛ cũng đă có cháu nội, cháu ngoại, thôi th́ đây cũng là cuộc vui.

Thày Tâm

 

Thầy và Tṛ.

_______________________Thầy Nguyễn Thành Vân KT

"Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy..” ( NĐ ) không phải chỉ "trông thấy" mà chúng ta đă nếm đủ mùi hỉ, nộ, ái, ố của kiếp nhân sinh vô thường này. Thời gian, thời gian xóa mờ nhiều thứ, chỉ c̣n tồn tại một thứ T̀NH không có TIỀN. Nhưng nếu T̀NH mà hiện lên bởi chữ TIỀN th́ t́nh ấy sẽ biến đổi ra sao ?! Tôi muốn nh́n lại cuộc sống của ḿnh, nghiệm lại tác động của hai thứ t́nh và tiền.

Là kẻ được dạy học ít nhiều ở hai chế độ cũ và mới. Cái ǵ mới cũng phải tốt, phải hay phải đẹp hơn cái cũ, hy vọng vậy. Nhưng thực tế tôi đă gặp, đă nghe, đă thấy, tôi không thể phán đoán nó hay, dở, tốt, xấu. Những mảnh đời tôi đă sống, đă khóc, đă cười. Là kỷ niệm, là kư ức vui buồn hạnh phúc khổ đau. Thật riêng tư, nhưng trong riêng tư đó có các em.!

Tôi đến xin đạy học tại trường Kỹ thuật Q vào tháng 8 năm 1968, sau khi cởi trả áo lính, giă từ vũ khí, giă từ chiến trường quái ác. Thầy Hiệu trưởng T T Thông bắt tôi đạy thử. Tôi giảng bài "Giải trực tiếp phương tŕnh bậc 2 : ax2 + bx + c = o". Trước khi vào quân đội, tôi đă dạy toán trung học 2 năm tại Bảo Lộc và Minh Ḥa, nên điều này không gây khó cho tôi, và tôi được thâu nhận ngay. Thầy Hiệu Trưởng giao hết Toán, Lư, Hóa hai lớp Đệ Lục và Đệ Ngũ, Trường mới mở năm thứ hai nên chỉ có 1 lớp Đệ Ngũ. Đào Gia Ất làm lớp trưởng, lớp có mười mấy em : Phạm Trường Thọ, Nguyễn Ngọc Giao, Hoàng Phan Cư, Thân, Lạc, Phi Hùng ( ? ) Đồng…….Lớp Đệ Lục nhiều hơn, Lưu Mộng Hoàng, Nguyễn Duy Hy, Nguyễn Duy Kỷ, Đinh Văn Định, Ngô Công Uẩn...……..( không nhớ nổi ).

Năm học 68- 69 có hai lớp Kỹ Thuật Toán, Thầy Bùi Dă dạy văn, Thầy Nguyễn Khoan Hồng đạy Kỹ nghệ họa, Cô Đỗ Thị Phụng ( cùng nhận việc một lúc với tôi ) đạy Anh Văn, vài tháng sau Thầy Ngô Đức Hải về dạy Lư Hóa, Tôi phụ trách môn Toán, Thầy Tâm Giám Học. Ở xưởng tôi không nhớ rơ lắm, chỉ nhớ Thầy Nguyễn Ngọc Anh dạy Mộc, Thầy Thành dạy Điện, Thầy Phạm Văn Ḥa dạy Điện, Thầy Bùi Văn Đắc làm Tổng Giám Thị, và hiện Thầy đă”mất tích“!. Văn pḥng có Anh Thành, Cô Ánh Thư Kư, Bác Đường... và nhiều Thầy Cô khác nữa...

Được dạy học, một nghề tôi mơ ước từ khi c̣n đi học, hơn nữa lại dạy môn tôi thích. Trường ḿnh nhỏ nên thật ấm cúng. Ấm như một Gia đ́nh, mà Gia đ́nh Q thật sự. Các Thầy đa phần là cựu quân nhân, hoặc QN biệt phái, các Cô ít nhiều cũng có quan hệ nhà binh. Phần tôi, sau những ngày tháng lăn lộn trên chiến trường khốc liệt, lửa đạn lấy đi một phần thân thể, không c̣n chiến đấu được nữa. Về đây dạy các em, nh́n các em tôi thấy có một điều ǵ ràng buộc, những đứa trẻ mồ côi cha, những người đi trước tôi, và là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. H́nh ảnh họ chập chờn trong tôi.

Thật t́nh tôi chưa được qua một lớp sư phạm nào. Chỉ học ”Lănh đạo Chỉ huy” ở quân trường lớn nhất, và cũng khe khắt  nhất thời bấy giờ. Trên 50 năm về trước, tôi học Đệ tam B Ban Toán. Trường Vơ Tánh Nha Trang, Thầy Bửu Cân dạy tôi :”Trẻ con đến trường không phải để học, mà để học cái cách học _ L’enfant ne vient pas a` l’e’cole pour apprenđre, mais pour apprenđre a` apprenđre _ Tôi theo lời dạy của Thầy tôi, hướng dẫn các em.

Tôi không bắt các em học thuộc ḷng, rập khuôn theo các bài mẫu, giải sẵn, các em phải tự soạn bài, tự t́m giải đáp cho các vấn đề, từ dễ đến khó. Môn toán quá quan trọng, nhất là ban Kỹ Thuật Toán. Nhưng đạy Toán là dạy thế nào đây ? Giáo Sư Nguyễn Văn Trường viết ”dạy Toán mà chỉ nhắm vào các bài mẫu, sự luyện thi, chiếm bằng cấp để sống nhờ bằng cấp, tức là đào tạo những con người vị kỷ, thụ động, muốn hưởng thụ trong một xă hội nghèo đói !... Dạy Toán một cách đứng đắn th́ những đề mục ghi trong chương tŕnh, những định đề, định nghĩa, định lư có thể ch́m trong trí nhớ, nhưng niềm tự tin, tính ngay thật, kiên nhẫn, tŕ chí, các phương pháp suy luận, phân tích, tổng hợp, thói quen t́m ṭi, thứ tự… mà Toán học đ̣i hỏi, sẽ tồn tại măi trong con người… giúp con người giải quyết được những vấn đề lớn nhỏ hằng ngày…” Toán là suy luận. Từ định đề, định nghĩa, định lư…đến các định lư khác. Tôi muốn các em phải có tinh thần tự lập, tự chủ,, không nô lệ, không sợ hăi, phải ngay thẳng, chính xác. Chính xác từ các dấu bằng, dấu cộng, đấu trừ, dấu gạch ngang phân số. Và vốn bản chất nhà binh nên tôi có phần nghiêm khắc với các em !. Đă có những lần xé vở soạn Toán của các em, phạt quỳ gối, kể cả cán chổi long gà vào mông các cậu lười soạn bài. Trái với sư phạm thật, nhưng mong các em hiểu cho chỉ v́ muốn các em học giỏi. Và các em đă học giỏi thật., với 4 năm liền các em thi Tú Tài 2 kỹ Thuật đậu 100%.. Thi vào Bách khoa, Sư phạm Kỹ Thuật các em đều đậu nhiều. Các Thầy Cô trường ḿnh có giấy khen của Bộ Giáo Đục, đó là phần thưởng lớn nhất của tôi.

Năm học 69-70 Trường ḿnh thay đổi nhiều. Thầy Hiệu Trưởng chuyển công tác về Trường V.B.Q.G. Thầy Cự làm Hiệu Trưởng. Thầy Huỳnh Hữu Tâm Giám học cũng được Thầy Đỗ Đại Thanh Vân về thay, Các lớp học được mở thêm. Ngoài Kỹ Thuật Toán, c̣n có Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp, Kỹ Thuật Nữ Công Gia Chánh. Các Thầy Cô cũng được tăng cường nhiều. Cô Triệu Thị Chơi, Cô Trầm Ngọc Tuyết, Cô Nguyễn Thị Xưng Huê, Cô Nguyễn Thị Thanh Long, Cô Ḥa đạy Lư Hóa, Thầy Nguyễn Văn Hồng, Thầy Ninh Thế Việt đạy pháp ngữ, Thầy Đỗ Trọng Ḥa, Thầy Phan Tấn Chữ đạy Điện Tử, Thầy Huỳnh Thanh Hải, Thầy Nguyễn Cao Mỹ Kỹ Nghệ Sắt, Thầy Vơ Phú Cường, Thầy Nguyễn Thế Thọ, Thầy Vương Thành Phát, Thầy Nguyễn Hữu Phi, Thầy Thành ( Điện) Thầy Thông ( Ô Tô ). Trường ḿnh càng đông càng vui. Thầy Cự chuyển công tác khác, T T Đặng Trần Đư chuyển về làm Hiệu Trưởng, bao nhiêu công việc Trường phần lớn Thầy Đỗ Đại Thanh Vân quán xuyến. Năm sau Thầy Huỳnh Sơn Cương về làm Hiệu Đoàn Trưởng.

Thầy Giám Thị Tâm với tôi cũng có một kỷ niệm nhỏ. Hôm đó, h́nh như đâu năm học 70-71, tôi vào Trường, Thầy đưa cho tôi bài làm của em Đàm

Quang Mai bảo tôi chấm. Đây là bài toán thi vào lớp 10 Kỹ Thuật Toán. Tôi thấy em không làm được nên cho 00 ! Thầy bảo : ”Ư chết, nó là cháu nội của Đại tá Đàm Quang Yêu, bạn thân của Bác Sỹ Viện Trưởng, mà sao Bạn cho điểm vậy ?” Tôi cười bảo : ”Cho nó vào học là quyền của Bạn, nó không làm bài được, tôi cho 00 điểm là việc của Tôi”. Sau đó sắp xếp cho em vào lớp Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp. Tôi quan niệm Kỹ Thuật Toán học được là phải khá Toán, ham thích môn Toán. Con đường của Kỹ Thuật Toán là Bách Khoa, là Sư Phạm Kỹ Thuật, nếu không đạt được yêu cầu th́ nên đưa các em vào Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp các em đễ thành công hơn. Với Tôi tất cả các em đều như nhau. Hướng đẫn các em với tất cả sự hiểu biết, với tất cả tấm ḷng, bất chấp thế lực nào. Nếu v́ một vấn đề nào đó mà đưa các em vào nơi không thích hợp, th́ đó là thương mà hại.

Tuy đứng lớp dạy Toán, nhưng sinh hoạt Hiệu đoàn của các em tôi đều tham dự. Từ văn nghệ ca hát, thể thao cho đến làm Báo Xuân. Hôm chạy bán Báo Xuân cũng có nhiều kỷ niệm vui vui…

Năm 1974, Viện điều tôi qua khu Nội Trú, Tôi chỉ c̣n vài giờ Triết học, lớp 12 K T T ( Môn luận lư ). Nội Trú tôi nhận một cơ ngơi tan tành với nhiều lời ”cảnh báo gian nan !“. Các em bất măn v́ : ”Người ta nuôi các em như nuôi Gà Công Nghiệp“. Tôi t́m hiểu sinh hoạt  ”Nội Trú”, và bắt đầu xây dựng lại. Trước tiên sửa chữa pḥng ốc, của sổ, bàn ghế tủ gường. Hệ thống thoát nước pḥng vệ sinh đều bị nghẹt, phải đục ra xây lại. Vấn đề nước sinh hoạt cho các em, tôi cho xây hồ chứa nước trong mỗi pḥng, để buổi sang các em không c̣n tranh nhau. Trang bị xô, gáo nhựa. Hệ thống nước cũng được sửa lại, mở nước hợp lư từ pḥng trên cùng xuống các pḥng đưới, để pḥng nào cũng có nước. Việc tiếp nhận các em vào Nội Trú cũng được tổ chức chu đáo. Mỗi pḥng đều có sơ đồ cho các em, bàn ghế, gường tủ đều có dán tên mỗi em, để các em trách nhiệm.

Vào năm học, tôi sinh hoạt, chuyện tṛ với các em mỗi tuần một tối, khoảng 2 tiếng, khêu gợi t́nh thương yêu, tính kỷ luật để xây đựng một Gia Đ́nh Q ấm áp t́nh người. Chỉ một thời gian ngắn, tôi rất hạnh phúc ( không phải thứ ”hạnh phúc” đề trên đầu mỗi lá đơn ! ) được các em ngoan, các em vâng lời, chăm chỉ học hành, các em đă xem tôi là Bố, là Ba. Mỗi chiều sau bữa cơm, tôi vào đứng dưới sân chờ đi dạy lớp Đêm, các em vây quanh quấn quưt bên ”Ba”. Các em có biết tôi vui sướng ngần nào không ??. Trong Gia Đ́nh Nội Trú, các phân khu trưởng T U Huấn, Bác Uyển, Cô Huệ cùng các Giáo Sư, Giám Thị, nhân viên đều hết ḷng thương yêu các em, làm việc chăm sóc các em tận t́nh. Tôi nhờ Cô Nguyệt, Dược sỹ chăm sóc hướng đẫn cho các nữ sinh, Cô Quế trực đêm lo về Y Tế ban đêm. Ngân sách nhà nước cung cấp cho ḿnh rất hạn hẹp, bác Uyển luôn t́m cách cải thiện bữa ăn cho các em. Tuổi đang lớn mà ăn uống quá kham khổ, Bác Uyển bàn với tôi lấy tiền ”đư thực”_ Nguyên tắc phải nộp lại ngân sách._ Cho các em 2 tuần một bữa Chè !!. Để giải trí, tôi quan hệ với Nhạc Sỹ Nguyễn Hữu Sáng Trưởng Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương để các em được xem Đại Nhạc Hội, tại pḥng ăn vào mỗi chiều thứ bảy. Ḿnh cũng có sinh hoạt Hiệu Đoàn_ Trần Xuân Cầu làm Hiệu Đoàn trưởng. Thầy Tṛ ḿnh cũng lên sân khấu ca hát. Tôi c̣n nhớ viết Bích Báo, các em đă tả ”Tô canh Nội trú ”:”Tô canh lạnh lẽo nước trong veo......Một con cá tẻo teo !”.

Cuộc sống êm đềm với bao ước mơ, một chương tŕnh cho năm tới, sẽ cải thiện nhiều hơn, sẽ có nhiều hoạt động xă hội hơn…Nhưng !! Biến cố… Đêm 29, Một trái pháo rơi vào pḥng nữ sinh. May mắn là Giám thị đă cho các em đi tản ra phố cả…

Rồi Thầy Tṛ ḿnh tan ră từ đó… Thời gian quá ngắn ngủi... Nhưng thời gian này, công việc tôi đă làm này có ư nghĩa nhất trong đời tôi. Tôi cám ơn các Em, những đứa trẻ mồ côi, những đứa trẻ thiếu t́nh thương. Chính các em đă cho tôi cơ hội thể hiện t́nh thương yêu, cho tôi một cuộc sống biết nâng niu, biết quư trọng t́nh người, Mà măi về sau này, tôi chỉ sống như một động vật, chỉ quần quật t́m cái ăn cho tồn tại thân xác này thôi.( duy vật cơ !). Tôi cũng đi đạy nhiều nơi sau đó, nhưng có lẽ không nơi  nào có nhiều kỷ niệm và T́nh cảm bằng ngôi Trường Q.

Các em thân yêu của tôi, Tôi viết ra những điều này hẳn các em đă biết cả rồi.... Thôi tạm đủ, Chào các em… Chúc các em sức khỏe.

 

 

Vợ Người Chiến Binh

 

•Thân tặng các em học sinh QGNT, có những người cha

hào hùng và những người mẹ can đảm, giàu tình yêu thương.

Hoài Thu Phương

 

 

Áo cưới em may,

Còn thơm mùi vải mới,

Rượu hồng em nhắp

Còn thắm ở bờ môi.

Một phút chia phôi,

Nghìn đời vĩnh biệt !

Anh bỏ lại, mẹ con em đơn côi.

Ra đi không thương, không tiếc !

Sao em không biết ?

Lấy chồng chiến binh

Để trở thành goá phụ !

Anh ơi, mỗi độ thu phong,

Dấu con lệ chảy ròng ròng !

Mùa thu, rụng lá ngô đồng

Đau đớn thay, em sống cảnh cô phòng !

Mẹ con em vẫn đợi, vẫn mong.

Hậu mình số phận long đong !

Thương anh chết cả cõi lòng

Tuổi trẻ em khóc chuyện "mất" chồng !

Anh đi trả nợ non sông,

Chờ ngày đoàn tụ thành công,

Ai ngờ số kiếp bềnh bồng !

Em đành ôm con đứng đợi mong !

Chăn đơn, gối lẻ lòng em lạnh.

Bây giờ em cô đơn bất hạnh !

Nhìn thời gian trôi qua nhanh.

Anh chết rồi, đời em vắng lạnh !

Em buồn khóc nơi phố vắng !

Thương nhớ hình bóng anh năm nào !

Anh về tận cõi lao xao !

Còn anh đâu nữa mà mong với chờ

Đời em lạc lõng bơ vơ !

Cuộc sống vô duyên, quá hững hờ,

Tâm hồn em quá xác xơ !

Em sầu lẻ bóng, gió nào lạnh hơn ?

Hoài Thu Phương

 

NHỮNG KỶ NIỆM TẠI TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ

Vào khoảng đầu tháng Mười năm 1967 tôi nhận được Sự vụ lệnh của Bộ Quốc-Gia Giáo-Dục thuyên chuyển từ trường Trung-học Thủ-Đức về dạy tại trường Trung-học Quốc-Gia Nghĩa-Tử Sài-G̣n. Trường này trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh, dưới sự điều-khiển của Bác-sĩ Đại-tá Viện-trưởng Trương Khuê Quan và Trung-tá Viện-phó Bùi Trọng Chi. Do sự viện trợ của Hoa-Kỳ nên trường rất lớn và được xây cất trên một khu đất rộng lớn, ở gần Ngă Tư Bẩy Hiền. Trường cao ba từng, các lớp học đều rộng răi và có tấm bảng xanh gắn liền vào tường như các lớp học tại Mỹ. Trường có các lớp từ đệ thất đến đệ nhất. Trường có khoảng 100 nhân viên gồm Hiệu trưởng, Giám-học, Giáo-sư, Giám-thị và thư-kư văn-pḥng Hiệu-trưởng. Nhà trường có một pḥng họp rất lớn để cho các Giáo-sư ngồi giải lao lúc trước giờ dạy học và lúc ra chơi. Cái đặc biệt ở trường này là các nam và nữ Giáo-sư ít khi nói chuyện với nhau và thường ngồi thành hai khu riêng biệt. Nam Giáo-sư th́ ngồi ở phía trong, gần tường c̣n nữ Giáo-sư th́ ngồi ở phía đối diện, ngay gần cửa ra vào.
Tại trường Quốc-Gia Nghĩa-Tử tôi đă gặp lại nhiều bạn bè cũ như Đỗ thị Lĩnh, Nguyễn thị Bắc và Trần Kim Loan, học cùng với tôi từ lớp nhất trường Lệ-Hải, Hải-Pḥng, Bắc Việt Nam, Nguyễn Kim Xuyến, Nguyễn thị Dung từ trường Trung-học Trưng-Vương rồi Đỗ thị Huệ và Trần Kim Oanh, bạn học từ trường Đại học Văn-khoa Sài-G̣n. Nữ Giáo-sư cũng chia thành hai nhóm: Các cô độc thân ngồi nói chuyện với nhau như Thu-Hoài, Thọ-Đa, Đỗ Dương Chi, Mai ... C̣n các bà thường ngồi nói chuyện với nhau về con cái, chợ búa, các món ăn ... Nhóm chúng tôi gồm có tôi, Lĩnh, Xuyến, Dung, Thu, Diệp, Tần, Ẩn, Hương ... Tần có tài nói chuyện pha tṛ nên rất vui.

Các học sinh của trường Quốc Gia Nghĩa Tử phần nhiều là con của các Hạ Sĩ quan tử-sĩ hoặc phế-binh nên đời sống cũng eo-hẹp. Lớp tôi dạy có một nữ-sinh tên Liên ngày nào tôi cũng thấy em mặc áo dài trắng đă cũ mà hai khuỷu tay đều bị vá thấy thương quá nên tôi bảo em đưa áo mẫu, tôi mua vải phin nơn may áo mới cho em. Sau khi nhận được áo mới, mấy hôm sau em trao cho tôi một tấm thiếp do ba của em viết cám ơn tôi và ngỏ ư muốn tôi nhận em làm con nuôi. Tôi đă viết thư cám ơn hảo ư của ông nhưng tôi từ chối viện lư do là tôi không đủ khả năng để nuôi em, c̣n chỉ nhận suông thôi th́ tôi không muốn. Ở một lớp Đệ-thất, có một nam sinh tên là Thành, chả bao giờ thuộc bài nên nh́n vào sổ điểm thấy các Giáo-sư Toán, Lư-Hóa, Sử-Địa ... đều cho điểm không và có vị c̣n viết kèm lời phê là "Không thuộc bài." Tôi thắc mắc nên muốn t́m hiểu. Một hôm nhân buổi ra chơi, tôi ở lại lớp rồi gọi Thành lên và hỏi là tại sao em lại không chịu học. Tôi được em cho biết là v́ nhà nghèo nên buổi tối em thường phải đi thổi kèn đám ma để lấy tiền phụ giúp cho gia-đ́nh. Em vui vẻ kể cho tôi nghe những buổi em đi theo phường kèn ra sao. Về sau trong giờ dạy của tôi có lần Thành đă đưa tay lên để xin đọc bài. Tuy không thuộc lắm nhưng chứng tỏ cho thấy em đă cố gắng làm cho tôi ngạc-nhiên và cảm-động.

GIÁO-SƯ NGUYỄN THỊ XUÂN-NGA
Trích trong HỒI KƯ "CUỘC ĐỜI DẬY HỌC"


 

 

Qua Cổng Trường Xưa

Thương mến gửi về Quư Đồng Nghiệp cũ và các em Học Sinh Quốc Gia Nghĩa Tử ngày xưa.
Kính tặng hương hồn Trung Tá Trương Khuê Quan, Thiếu Tá Bùi Trọng Chi và Hiệu Đoàn Trửơng Lâm Hữu Bàng.

Trở về Việt Nam bao nhiêu lần mà tôi vẫn c̣n đắn đo có nên thăm trường cũ không? Mà có ai c̣n nơi đó để mà thăm?
Tôi xa trường Quốc Gia Nghĩa Tử từ tháng bảy năm 1967, vài ngày sau khi Hiệu Trưởng Thân Trọng Huề đến nhậm chức. Đến chào Tân Hiệu Trưởng để thanh minh: “Thưa Hiệu Trưởng tôi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển trước khi Hiệu Trưởng đến đây. Vậy là tôi đi không phải v́ Hiệu Trưởng đến.” Và hôm ấy không biết Hiệu Trưởng Thân Trọng Huề buồn lo chuyện ǵ mà chỉ nói một câu giă từ ngắn ngũi, “Je m’en fiche.” Thế là từ dạo ấy tôi không có dịp trở lại ngôi trường xưa, nơi mà ấp ủ bao kỷ niệm với các bạn đồng nghiệp và những học sinh thương mến.

Thuở trường Quốc Gia Nghĩa Tử khai giảng niên học đầu tiên năm 1963-64, chúng tôi gồm 4 nữ giáo sư và vài nam giáo sư dân sự: gs Vạn Vật Nguyễn Văn Thơm, gs Pháp Văn Lê Quan Tấn, gs Vật Lư Vũ Ngọc Vĩnh, gs Sử Địa Nguyễn Đôn Phong, gs Toán Nguyễn Phúc Khánh. Quả thật chúng tôi là dân thiểu số giữa những thầy Kaki đẹp trai lúc nào cũng chỉnh tề trong bộ quân phục thẳng nếp. Hai chị giáo sư Việt Văn Hồ Thị Ngọc Nữ, Vơ Thị Ngọc Dung và về sau có thêm chị giáo sư vật lư Nguyễn Thị Kim Loan bận lo bổn phận làm mẹ hàng năm nên chỉ c̣n Nguyễn Lan Phương và tôi thừơng bị “chịu trận” ở trường Thiếu Sinh Quân mỗi khi hè về với một đám học tṛ loi nhoi đủ lứa tuổi từ đệ thất đến lớp mười hai. Năm sau có thêm kiều nữ giáo sư vạn vật Ngô Thị Băng Sơn tiếp tay và những năm kế tiếp có thêm gs Việt văn dẹp mê hồn Ngô Thị Thu Hà và gs Việt văn Nguyễn Thị Hoà lúc nào cũng làm vui nhà vui cửa mỗi khi Chị hiện diện.

May mắn là vị giám học Lâm Hữu Bàng rất-là-nhà-binh luôn làm trại trửơng có biện pháp kỷ luật cứng rắn nên trại sinh lúc nào cũng theo nề nếp và tôn trọng giờ giấc trong các trại hè. Ngoài ra quư nam giáo sư như Trần Văn Đắt, Hoàng Đ́nh Lộc, Nguyễn Văn Xiêmm Hoàng Xuân Thiệu (thuở ấy chưa làm hiệu trưởng) Hồng Quang Anh, Huỳng Văn Quảng, Lê Văn Khiết, Bùi Quốc Tường, Nguyễn Khánh Do, Nguyễn Tri Văn, Trần Quốc Giám, Vũ Viết Dy, Phan Văn Cừ, Phan Văn B́nh, Trần Đ́nh Thanh, Lê Thái Ất, Diệp Vĩnh Tấn (c̣n ai nữa nhĩ? xin đánh chữ đại xá cho nếu lở quên nêu tên) rất là dễ thương sẵn sàng làm thay các nữ giáo sư “ốm yếu” những ǵ trong khả năng. Nhưng có một lần quư vị nam giáo sư không biết làm sao ra tay giúp mà chỉ đứng thập tḥ ở cửa ra vào pḥng ngủ nh́n các nữ sinh oằn oại rên la kêu khóc. Chẳng là chiều hôm đó nhiều nữ sinh bị ngộ độc thực phẩm sau bữa cơm chiều nên vừa nôn vừa khóc ầm ỉ. Có em phải lê lết xuống cầu thang để lên xe tới bệnh viện. Các nữ giáo sư quả thật là tay mềm chân yếu không sao bê các em nỗi. Rất may là hôm sau các em vui vẽ trở về đoàn tụ với gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử tiếp tục những ngày vui ở Vũng Tàu sau một phen hú vía.

Sống vui với đại gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử đến tháng bảy năm 1967, tôi “đào ngũ.” Tôi ra đi – không phải theo tiếng gọi của con tim của ông bồ quân dược mà học sinh ngỡ là Phi Luật Tân do nứơc da đen ḍn và mái tóc dợn– mà v́ nhu cầu nghề nghiệp. Ngày tôi ra đi có lẽ giúp ông Tổng Giám Thị Mười và Hiệu Trưởng Bùi Trọng Chi thở phào nhẹ nhơm, không c̣n phải lo “Chị sao mà chiều chúng nó thế!” Trong nghề dạy học tôi áp dụng Triết lư t́nh thương chứ không phải kỷ luật để giáo dục học sinh. Không biết Hiệu trưởng Bùi Trọng Chi báo cáo về tôi với Viện trưởng ra sao nhưng mỗi lần họp là tôi có đề tài để xin thảo luận và cứu xét cách nào cho hợp với việc giáo dục thành phần học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử. Thế cho nên lần đầu tôi tŕnh diện với Viện Trửơng Trung Tá Trương Khuê Quang, ông nh́n tôi rất kỹ rồi hỏi lại “À, ra Chị là Vơ Kim Sơn phải không?” Trung Tá Trương Khuê Quang hẳn là ngạc nhiên v́ trông vẻ bề ngoài của tôi không đến nỗi “tân tiến” lắm dù tôi ở Mỹ mới về c̣n thơm mùi “hot dog” và “hamburger.”

Đa số các em học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử thiếu vắng t́nh thương. Cha Anh đă ngă gục ngoài trận tuyến. Mẹ th́ phải tảo tần lo cho cuộc sống gia đ́nh hàng ngày, nên giao các em cho bà ngoại, bà nội trong nom. Có em phải đeo ṭn ten phía sau chiếc xe đ̣ cà rịch cà tang lê lết từ Hóc Môn thả các em xuống ngă tư Bảy Hiền để đến trường, tay cắp sách, tay ôm b́nh cà rem. Có em học sáng xong là ôm b́nh cà rem bán suốt buổi chiều hay ngược lại là phải bán hết cà rem để kịp vào lớp lúc một giờ. Khi gọi các em đọc bài không thuộc tôi không nở hạ bút khoanh tṛn trứng vịt v́ các em phải bị “consigne” ngày Chúa Nhựt,” rồi ai sẽ gánh nước cắt rau, tưới cải, nhổ cỏ bón phân vườn rau thay cho các em đây?

Tôi không phạt. Tôi không rày. Ngô Chí thiền làm chứng cho tôi nhé. Đây là cậu học tṛ phá tôi nhất. Vừa điểm danh xong, quay lưng lại để viết bảng là nghe tiếng, “Thưa cô Ngô Chí Thiềng nhảy cửa sổ.” Thế mà các em học ban A ra thi Tú Tài đều được điểm cao với môn Vạn Vật. Đặc biệt là Vương Thị Ngọc Dung, Nguyễn Thị Thu Thủy, Lê Hồng Đa, Trần Cao Cử, Lê Thị Mát, Nguyễn Thị Nguyệt và cũng là hiền thê của thầy Trần Văn Đắt. Xin hỏi nhỏ thầy Đắt một câu nhé. Làm sao mà Thầy được vướng vào “Ṿng tay học tṛ” vậy? C̣n ai được điềm Vạn Vật 19/20 thuở ấy, nhớ lên tiếng nhé.

Rồi đến khi sang Mỹ học lại vào năm 1972, tôi đựơc gặp một số học tṛ cũ ở QGNT ngày xưa đựơc tuyển chọn theo chuương tŕnh leadership programs. Mừng ơi là mừng đựơc gặp nhau trên đất Mỹ, ở cái thuở mà trên toàn đất Mỹ chỉ có vơn vẹn 800 ngừoi Việt Nam kể cả nhân viên Ṭa Đại Sứ Việt Nam.

 



Rồi năm nghiệt ngă 1975 đến. Chúng tôi chia tay nhau. Người quay về cố quốc, kẻ sang Mexico hay Canada t́m kế lưu ngụ hải ngoại v́ chiến tranh ở quê nhà đến hồi kết thúc không thuận lợi cho miền Nam Việt Nam. Chúng tôi mất tin tức nhau suốt thập niên 70’s và 80’s ngoại trừ Xuân Mai đến rũ rê cùng nhau vựơt biên mấy năm liền mà không thành.

Rồi dến đầu thập niên 90, có đại hội QGNT lần đầu ở Orange County. Chỉ có thầy Phạm Nghệ là không thay đổi v́ thầy vốn gầy g̣ muôn thuở. Gặp lại, chúng tôi bỡ ngỡ âm thầm hỏi nhau, “có phải ngừơi xưa không nhĩ?” Đă mấy thập niên xa nhau! Hàng mấy chục năm đó đủ cho mái tóc đổi màu,- mà không cần đền bàn tay khéo léo của cô thợ làm tóc- và đủ để bàn tay khắc nghiệt của thời gian tạc những lằn phân chia ranh giới mắt, mủi, môi, miệng trên những gương mặt tươi mát của ngày xưa.

Rồi ít khi gặp lại nhau. Tôi cứ tưởng chừng những kỷ niệm xưa đă đựơc chôn vùi dứơi lớp thời gian mấy mươi năm dày đặc. Măi cho đến năm 2000, trên đừơng từ Nam Vang về đến Saig̣n bằng ô tô, khi ngang qua cỗng trừơng Quốc gia Nghĩa Tử, có ngừơi hỏi, “Đây có phải là trừơng QGNT không?” Tôi run giọng trả lời, “ Vâng. Bên ng̣ai trông bệ rạc với những hàng quán la liệt, nhưng bên trong đó tôi có nhiều kỷ niệm dấu yêu không tiền của nào mua lại đươc.”

Vơ Kim Sơn
Nhân dịp hội ngộ Gia Đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử tại San Jose 8-8-2003
 

 

 

 

KHU VƯỜN HỌC SINH

 

 

 

QGNT với bạn so với các trường Trung học khác hay hơn hay dở hơn?

 

Trích trong báo Xuân QGNT phổ thông năm 1974

 Phỏng vấn các trường bạn trong buổi ra mắt Ba Trường Phổ Thông - Kỹ Thật - Tổng Hợp

 

 - Trưng Vương

 QGNT có một trường sở thật là rộng răi, mát mẻ, đủ tiện nghi hơn các trường khác và nếu liên kết toàn diện ba trường: Phổ thông - Tổng hợp - Kỹ thuật - Sẽ tiến mạnh trên mọi tiêu chuận Trưng Vương không nịnh đâu nhe thật đó!!!

 

- Chu Văn An

 - Từ h́nh thức đến nội dung, QGNT có thể coi như thật là hoàn toàn rồi, v́ có đủ phương tiện cho học sinh trong trường theo học cũng như có đủ môn giải trí.

- Sự đoàn kết sẽ đưa QGNT gặt hái những kết quả tốt đẹp. V́ thế nếu hợp tác thân mật cả ba trường Phổ Thông - Kỹ thuật - Tổng hợp th́ trong tương lai, QGNT sẽ nhiều triển vọng.

 

- Gia Long

 - Tổ chức nội bộ thật khéo léo Gia Long hy vọng QGNT sẽ tiến mạnh trên mọi phương diện - Gia Long thật khâm phục dzậy đó.

- Nhưng sao ban đại diện trường QGNT đông quá cũng thấy hết khố này tới khối đi thăm. Ôi! mệt quá!

 

- Vơ Trường Toản

 - To quá! lớn quá! bự quá!  Vơ Trường Toản không ngờ! Thật vậy, v́ là lần đầu tiên chúng tôI xem tận mă‘t, có thể Xếp vào hàng nhất trong các trường Trung Học Sàig̣n.

 

QGNT tổ Chức nội bộ khéo quá! Đoàn kết cả ba trường PT-KT-TH đó là điều thật đáng khen ngợi.

 

- Tân B́nh

 -Lối kiến trúc của QGNT đẹp thật, có đủ Tiện nghi cho học sinh sướng ghê!

- Thành thật khen QGNT hay ghê vậy đó, tổ chức lễ ra mắt ban điều hành học sinh một trường là cả một vấn đề vĩ đại rồi – Tân B́nhchịu thôi. Đây tới những ba trường mà QGNT cũng tổ chức một cái rụp mà c̣n khéo nữa chứ. Tân B́nh hy vọng QGNT sẽ - Ba cây chụm lại nên ḥn núi cao.

 

- Hồ Ngọc Cẩn

- Rất hănh diện khi được ban đại diện trường QGNTđón tiếp một cách nồng hậu, và Hồ Ngọc Cẩn ngạc nhiên nhiều khi thấy một ngôi trường quá đồ sộ, cùng với những môn thể Thao mà Ít trường nào có thật đầu đủ như vậy. À, xin đừng hiểu lầm, mà đây là tiếng nóI thành thật nhất của trường Hồ Ngọc Cẩn đấy.

- Cách tổ chức khéo léo, hợp tác chặt chẽ, đó là điểm lợi trong những sinh hoạt – Thân chúc QGNT đạt được nhiều thắng lợi trong sinh hoạt năm này.

 

- Lê Văn Duyệt

- Cả một trường đồ sộ! Chắc đông học sinh lắm, lại c̣n chỗ ăn chỗ ở cho cả nam lẫn nữ, hiếm có trường nào như vậy (?)

- Cách tổ chức nội bộ hay lắm, hy vọng QGNT gặt hái được nhiều kết quả mỹ măn.

 

- Văn Hoá Quân Đội

- Với cái nh́n khách quan của chúng tôi, trường QGNT không thua kém bất cứ trường trung học nào ở Sàig̣n, Gia Định và Chợ Lớn. Đó cũng là điều đáng mừng cho các bạn QGNT đă mất đi người thân nhưng cũng được đền bù phần nào về tinh thần cũng như vật chất.

- Nói về tổ chức nội bộ, thôi cho chúng tôi miễn bàn! Nhất rồi c̣n ǵ! Nội cái buổi lễ ra mắt này cũng đủ chứng minh.

 

À mà ban điều hành QGNT năm nay sao đông thế mà người nào cũng có vẻ hăng say … Văn Hoá Quân Đội thân chúc QGNT đạt thật nhiều thắng lợi năm nay về sinh hoạt bên ngoài cũng như bên trong trường.

 

 

Tôi Vào Trường QGNT Như Thế Nào ?

 

 

Lớp Kỹ Nghệ Mộc Tổng Hợp Đầu Tiên

Vào năm học Đệ Nhị (1968) chúng tôi ba đứa: Hoàng Xuân Tiến, Phan Nhật Tân và Hoàng Thanh Liêm ( học dưới tôi một lớp) ghi tên vào lớp Kỹ Nghệ Mộc đầu tiên của chương tŕnh Tổng Hợp.

Trưa chúng tôi ở lại trường, có bữa ăn ở nhà ăn Khu Nội Trú Nữ, có bữa đi bộ ra Ngă Tư Bảy Hiền ăn cơm Xă Hội ( mẹ tôi là Cán Bộ phụ trách phát phiếu cơm khu Saigon Chợ Lớn Gia Định), đầu giờ chiều học Kỹ Nghệ Họa ba tháng, sau mới xuống xưởng thực tập Kỹ Nghệ Mộc. Phụ trách hướng dẫn là Thầy Huỳnh Thanh Tâm. Ban đầu c̣n lúng túng về cách tŕnh bày bản vẽ, độ đậm nhạt dày mỏng của các đường trên bản họa đồ, dần dần rồi cũng quen với Chính Diện, Trắc Diện, Thiết Diện; biết cách đọc, và biết cách thể hiện vật thể ḿnh quan sát thành những chi tiết cần thiết cho người thợ thực hiện trong xưởng tái tạo thành vật thể ḿnh đă thấy, hay muốn thấy. Lớp Kỹ Nghệ Họa cứ thế trôi đi trong buồn chán, lư do chỉ có ba đứa chúng tôi. Thầy ít nói, chúng tôi cũng chẳng đứa nào nói nhiều, cố gắng ngày qua ngày.

Tôi từ bé đă thích táy máy tay chân. Nhiều năm trước nhà tôi phá vách lá làm thành vách đất, tôi cũng lăng xăng theo mẹ và các bác các d́, đạp đất nhồi rơm, chẻ lạt buộc hom, đánh tranh lợp mái. Sau khi bố mất, mẹ bỏ chút tiền dành dụm mua cát và xi măng về, hai mẹ con lúc thảnh thơi công việc lại đóng gạch, phơi khô chất đống, chuẩn bị xây tường. Xây tường xong, mẹ tôi thuê một ông thợ mộc lớn tuổi đến làm căn gác lửng, phía trước để thờ tự, phía sau là chỗ tôi ngủ và học bài. Tôi lại có dịp làm quen với cưa bào đục đẽo nên đối với tôi lớp Kỹ Nghệ Mộc mang đến khá nhiều hứng thú.

Hôm đầu xuống xưởng, lần đầu trông thấy máy cưa máy bào, tôi cứ ṿng quanh quan sát, nhưng Thầy chưa cho chúng tôi độc chạm ǵ cả. Thầy giao cho mỗi đứa một cái đục, bảo đi mài. Mài đi , mài lại, đưa Thầy xem, vẫn chưa được, nhưng không biết chưa được là sao, chưa được ở chỗ nào, chỉ biết chưa được th́ mài nữa. Nhiều năm sau, khi vào trong tù cộng sản, tôi mới hiểu cách áp dụng h́nh học, vật lư vào những công việc như vậy, trở thành người chế tạo và bảo tŕ dụng cụ cho cả xưởng cưa mộc.

Sản phẩm đầu tay của chúng tôi có khác nhau, v́ Thầy cho mỗi đứa một thỏi gỗ, tùy ư dung các dụng cụ làm một món mà ḿnh thích. Tôi dùng đục và dũa tạc thành một cái đầu ba phần giống người bảy phần giống khỉ. Thầy xem xong cũng chẳng có ư kiến ǵ. Tôi thấy tuy chẳng đẹp, xong dù ǵ cũng là công sức của ḿnh, nên giữ măi đến ngày ra đi mới bỏ.

Kế tiếp chúng tôi chung nhau làm kệ sách 8 cột 3 tầng. Gọi như vậy v́ nó có tám cây cột tṛn đường kính khoảng hai phân rưỡi (1 inch) cao khoảng một thước rưỡi (5 feet) và chín miếng gỗ ép mỗi cạnh ba tấc (1 foot) khoan bốn lỗ đều nhau ở bốn góc đường kính bằng đường kính của cột gỗ. Góc được dũa tṛn , cạnh gỗ đánh giấy nhám cho nhẵn tránh bị xóc dằm. Vật liệu xong, Thầy chỉ chúng tôi ráp tử giữa ra. Tùy theo ư thích có thể điều chỉnh độ cao của các tầng kệ, rồi dùng đinh chốt để giữ cho khỏi tuột xuống.

Tác phẩm thứ ba cũng là tác phẩm cuối cùng của chúng tôi là bàn trang điểm. Mỗi người tự làm, đóng xong đem về nhà dùng. Khi mang ra Pḥng Hiệu Đoàn, Kiều Sơn thấy hỏi xin, Thầy Ân cũng muốn lấy về tặng Cô ở nhà. Kết quả dĩ nhiên tôi tặng cho Kiều Sơn, không phải v́ có ư tứ ǵ, chỉ v́ Thầy Ân có thể mua được, nhưng Kiều Sơn c̣n đi học , làm sao có thể tùy ư mà có được một chiếc bàn trang điểm. Năm 2005, có dịp nói chuyện điện thoại với Phạm Văn Bộ và Kiều Sơn, Kiều Sơn hỏi tôi c̣n nhớ ǵ không, tôi trả lời c̣n nhớ, nhưng nhớ hôm Mậu Thân trường ḿnh đi ủy lạo Tiểu Đoàn 3, Kiều Sơn múa bài Hận Đồ Bàn trượt ngă trên sân khấu.

Sau đó, chúng tôi ba đứa cùng mười đứa khác bị đuổi học từ 7 ngày đến 30 ngày. Tôi không c̣n dịp quay lại lớp Kỹ Nghệ Mộc, tự ḿnh phải nạp đơn thi Tú Tài I với tư cách thí sinh tự do v́ Trường không chuyển đơn thi. Chẳng hiểu v́ sao sau đó lại cho phép tôi quay lại học Đệ Nhất, có điều tôi không c̣n cảm thấy thân quen như trước, Thầy Cô, bạn bè tránh né tôi, tôi cũng t́m được một chỗ dạy kèm, vừa học vừa làm, ít lui tới lớp, ít gặp bạn bè. Song tôi vẫn nhớ những buổi trưa ở lại, pḥng học vắng vẻ chỉ có ba đứa, khu xưởng mênh mông với bốn Thầy tṛ và những thao tác đầu tiên bên máy cưa máy bào, những điều căn bản đă giúp tôi trôi qua mười mấy năm tù cộng sản, vài chục căn nhà, hàng ngàn khối gỗ, và biết bao bàn ghế giường tủ, trang trí nội thất thành h́nh nhờ lớp học ngắn ngủi đầu tiên ấy.

Phan Nhật Tân

 

 

Phân Hội Quốc Gia Nghĩa Tử và Cô Nhi Tử Sĩ

Phân Hội Quốc Gia Nghĩa Tử và Cô Nhi Tử Sĩ nằm trong Hội Cựu Chiến Sĩ, trụ sở nằm tại đường Ngô Quyền, góc đường Hồng Bàng Chợ Lớn, bên cạnh nhà của Tướng Lê Văn Tỵ th́ phải Ban đầu có Nguyễn văn Nghiệp, Lâm Tấn Sĩ, Nguyễn Duy Tín, tôi, Nguyễn Quang Nhật, Hoàng xuân Tiến, và khoảng hơn chục hội viên.
Việc làm đầu tiên là tổ chức gian hàng Hội chợ Tao Đàn dịp Noel 70 để gây quỹ, một bên bày bán hoa lan, một bên tổ chức nhạc sống. Sau nhờ vào những tin tức từ Hội Cựu Chiến Sĩ, lo hồ sơ hoăn dịch về các lư do khác ngoài học vấn cho các QGNT. Có lúc vận động tranh cử giúp một vài nghị viên, trong đó có Lư Minh Khiêm dường như cũng là một CNTS tranh cử trong khu Phú Thọ Hoà, B́nh Hưng Hoà..
Sau nhờ quen biết của NguyễnDuy Tín, Phân Hội dời ra đường Cao Thắng, nhà của Ông Trịnh quang B́nh, Thứ Trưởng Thông Tin th́ phải, Lúc này Nghiệp tỏ lộ khuynh huớng chính trị mưu lợi và hưởng thụ, lại bị ảnh hưởng của cánh Lê Văn Nuôi, tôi khuyên không được nên thôi không c̣n lui tới với Phân Hội nữa.
Gần cuối 74 có gặp lại Nghiệp lúc bấy giờ làm ở Điện Lực Phú Nhuận, chuyện tṛ qua loa rồi thôi. Lâm Tấn Sĩ th́ sau Noel 70 tôi không c̣n gặp nữa v́ chàng dính dáng vào một chuyện t́nh cảm gây rắc rối cho tôi đến ba bốn tháng phải t́m cách nói dối bào chữa cho anh ta.
Tù Cộng Sản ra, gặp lại Tiến mới hay Nghiệp đă mất, c̣n lại cô em và bà mẹ già. Tôi bận bịu kiếm sống, đi lại chỉ có chiếc xe đạp cũ, hơn nữa mười mấy năm vật đổi sao dời, bạn thân chẳng c̣n mấy ai, nên cũng chẳng hỏi thêm về sau Phân Hội ra sao nữa.

Phan Nhật Tân

 



 

KÝ ỨC VỀ NGÔI TRƯỜNG QGNT YÊU DẤU! .

- Niên khóa 1971 -1972, tôi bước vào Trường Q.G.N.T với sự bỡ ngỡ biết bao. Trường và các bạn đều mới lạ … nhưng tôi cũng dễ ḥa nhập được v́ bản tánh thân thiện và dạn dĩ, v́ tôi đă từng ở trong môi trường Hướng Đạo của S.D.N.D
Tôi được xếp vào lớp 7A3, Số danh bộ 91/71. Hiệu Trưởng là Thầy Ḥang Xuân Thiệu, Giám Học là Thầy Trần Ngọc Hồ, Tổng Giám Thị là Thầy Nguyễn Sơn.
Giám Thị lớp là Cô Vũ Thị Măo, Giáo Sư hướng dẫn là Cô Hoàng Thị Lộc dạy Sử Địa, môn Văn Thầy Nguyễn Văn Vỹ, môn Toán cô Nguyễn Thị Thu Hoài, Âm nhạc Cô Trần Thị Thu Vân. Lúc đó chắc có lẽ bé nhỏ xinh xinh …nên tôi được Cô Thu Vân chọn vào nhóm múa bài “ Bướm Hoa” và “Nụ Tầm Xuân “ với các bạn cùng lớp và các anh Mai Cao Tăng và Đỗ Ngọc Vinh.

Chị Mỹ Vân ở Trường Thiên Phước được Cô Thu Vân nhờ đến để chị đàn cho chúng tôi. Người đă đóng góp nhiều công sức cho chương tŕnh văn nghệ và nhóm múa chúng tôi tập dợt là Anh Trần Quảng Nam và Thầy Tấn (Vạn Vật). Nhóm múa chúng tôi cũng là một trong những tiết mục nằm trong show tivi của Trường vào mùa Hè năm đó …

- Niên khóa 1972-1973 … tôi mới có nhiều niềm vui làm sao…
Tôi lên lớp 8A3 Giám Học là Thầy Huỳnh Văn Ân, Giám Thị Lớp là Thầy Đinh Văn Ái. Giáo sư hướng dẫn là Thầy Nguyễn Văn Thơm dạy Vạn Vật, Sử Địa là Thầy Nguyễn Hồng Xỷ, Văn Cô Vũ Thị Thục Anh, Toán Thầy Phan Văn Cự, Âm Nhạc do Thầy Phạm Nghệ phụ trách.

Măi cho đến bây giờ … bản thân tôi nhớ rất rơ về Thầy Phạm Nghệ từ phong cách làm việc cho đến tài năng của Thầy. Nhớ Thầy chọn lọc, lớp tôi và một lớp 9 Nam sinh để hợp thành một ban hợp xướng tŕnh diễn 2 tác phẩm “Ḥn Vọng Phu“ và “Tiếng Ḥ Miền Nam“. Nhờ tích cực đóng góp tài năng …. Ban Hợp Xướng chúng tôi cũng được hưởng một tuần lễ hè tại Vũng Tàu cùng với tất cả học sinh giỏi của Trường …
Cũng trong năm này tôi cũng đă đọat luôn giải I cuộc đua xe đạp chậm vượt chướng ngại vật, nhân dịp Lễ Hai Bà Trưng do Trường tổ chức ... trong tiếng reo ḥ mừng rỡ của các bạn cùng lớp ….
Thầy Hiệu Đoàn Trưởng Phan Văn B́nh đă trao tặng Giấy Ban Khen, và tôi vẫn c̣n giữ cho đến tận bây giờ ….

- Niên khóa 1973-1974 tôi lên lớp 9A4. Giám Học Thầy Huỳnh Văn Ân, Giám Thị lớp là Cô Nguyễn Thị Nhung, Giáo Sư hướng dẫn là Cô Lưu Thị Lệ dạy Sinh Ngữ, Văn Cô Vơ Thị Ngọc Dung, Sử Địa Cô Dương Thị Minh Hà, Toán Thầy Bùi Quốc Tường.
Trong năm này, chắc chúng tôi cũng hơi lớn rồi, nên được các Anh Chị mời tham gia bán Báo Xuân cho Trường vào dịp gần Tết. Đây cũng là một kỷ niệm mà chúng tôi cũng không thể nào quên được. Khi th́ vào giảng đường bên Văn Khoa, lúc th́ vào bên Luật, hay đi đến các trại của các Binh Chủng để giới thiệu các tờ Báo Xuân.

Nhờ vào những dịp đi bán Báo Xuân, mà tôi lại có dịp gặp gỡ và tiếp cận những người Lính. Thế là tôi lại có dịp chia sẻ t́nh cảm và ḷng yêu văn nghệ của ḿnh trong chương tŕnh ”Lính Hát Lính Nghe“ trên Đài Phát Thanh Quân Đội với nhạc phẩm “Ai Về Sông Tương“ của Thông Đạt. Chắc nhờ Trời thương kẻ nhiệt t́nh chăng …?

Vâng! Nhạc Phẩm “Ai Về Sông Tương“ tôi tŕnh bày đă được Chương Tŕnh Lính Hát Lính Nghe trao cho một phần quà lưu niệm, và tôi đă gắn liền với nhạc phẩm này cho suốt niên khóa mỗi khi Trường có tiết mục văn nghệ ……

- Niên khóa 1974- 1975 tôi lên lớp 10A2. Thầy Hiệu Trưởng Phạm Thanh Liêm, Giám thị lớp Cô Đỗ Thị Sy, Giáo sư hướng dẫn Cô Phạm Vân Hương dạy Vạn Vật, Môn Văn Cô Trần Phương Mai, Sinh Ngữ 1 Cô Đỗ Duong Chi, Toán Thầy Phan Văn Cự , SinhNgữ 2 Thầy Lưu Công B́nh, Lư Hóa Thầy Trịnh Phan Anh. Thơi gian này tôi thật sự cảm thấy ḿnh rất sung sướng đă được học trong một Trường được đào tạo rất tốt từ Văn Thể Mỹ. Các Thầy Cô tôi đều nhớ như in trong tâm trí ,.Các Thầy Cô đều đẹp, giỏi, tài năng và có những t́nh thương đặc biệt đến chúng tôi, như phần nào vỗ về an ủi những đứa học tṛ sớm ở trong hoàn cảnh mất đi người Cha yêu dấu …!

Được chọn là thành viên trong đội ngũ kế thừa, niên khóa này tôi cũng được chọn trong Ban Đại Diện Hoc Sinh, ở khối xă hội với Thanh Hải, cùng trong Ban Đại Diện có Anh Nguyễn Thành Công Khối Học Tập, Lê Trọng Điềm, Nguyễn xuân Hiệp, Chi Ngoc Thi, Chi Kim Thanh v..v… Chúng tôi cùng làm việc trong tinh thần vừa học vừa làm.
Tuy chỉ được học va chơi, tham gia các sinh hoạt trong ngôi Trường đầy ắp yêu thương đó vỏn vẹn có 4 niên khóa, mà sao tôi cứ nhớ măi, nhớ hoài những kỷ niệm.

Nhớ ngôi Trường xưa thân ái với 2 dăy lầu cao 3 tầng sừng sững, trải dài với một sân banh rộng nối liền vào khu Nội Trú va Hội Trường. Nằm phía bên phải khi nh́n ra cổng chính là Trường Kỹ Thuật Quốc Gia Nghĩa Tử và Thư Viện.

Kính thưa Thầy Cô và tất cả Anh Chi Em Thương Mến.
Kim Liên xin chia sẻ những kỷ niệm cũ hoài nung nấu trong Tim, mong rằng những kỷ niệm và những thông tin trên, Kim Liên sẽ liên lạc được nhiều bạn bè cùng lớp, cùng khối.

Có lẽ ở trên cao Cha, Anh chúng ta cũng sẽ hài ḷng với những ǵ mà Họ đă đóng góp cho núi sông. Khi mà thấy sự học hỏi, tiến bộ của các con em ḿnh …

Kim Liên

 

Viết Về Nguyễn Ngọc Giao KT73

Bố mất khi Em 4 tuổi . Xem lại h́nh hôm đám ma Bố , Em nhỏ xíu mặc áo sô gai trắng , tay cầm cây gậy nhỏ , trên đầu c̣n đội một ṿng giây gai . Em đưa mắt nh́n chung quanh ngơ ngác .

Chắc chắn Em không hiểu chuyện ǵ đang xảy ra , tôi lớn hơn Em một tuổi , đứng bên Em và chị Quỳnh
hiểu loáng thoáng ...Bố chết , phải khóc .....

Bố mất để lại cho Mẹ 3 đứa con dại , lớn nhất mới 7 tuổi .

Bây giờ nhớ lại , thương em lớn lên không biết và không có kỷ niệm nào với Bố.

Em là người thông minh , tài hoa , tâm hồn văn nghệ , vậy mà cũng có đai đen nhu đạo .

Em vẽ trong cuốn sách 100 trang những chuyện cao bồi trừ gian diệt bạo . Em ngồi đàn từng tưng nhịp điệu Paso hay có lúc mơ màng khúc nhạc classic....

Em học giỏi , cuối năm đều có phần thưởng của trường , tuy vậy không bao giờ Em được hạng nhất v́ có bạn Kỷ , luôn luôn đứng đầu .


Một vùng như thể cây quỳnh cành giao .

Từ câu thơ trên , tên Em là Ngọc Giao và Chị lớn tên Như Quỳnh.( tên tôi không có điển tích )

Là con trai duy nhất trong nhà , Em phải học nấu cơm khi Mẹ đi làm và 2 chị đi học buổi sáng . Cơm bữa sống bữa khê , canh bắp cải nấu cạn cả nước , c̣n nhớ Em nấu canh rau đay để nguyên cọng dài ngoằng...em hớn hở kêu ngon lắm ăn thử xem... Em than thở phải lau nhà dài cả lưng....

Vào trường Kỹ Thuật , Em học về ngành đúc , đúc bảng số xe Honda cho anh Long thật đẹp.

Em quen cô bạn tên KA , hai người viết thư qua lại toàn bằng morse .


Sau 75 , Em không có cơ hội học thêm , loanh quanh làm việc kiếm sống.

Năm 76 Em lấy vợ và có 2 con trai .

Năm 84 Em t́m đường vượt biên trên chiếc ghe nhỏ có 23 người , lạc vào đảo san hô , không thực phẩm , nước uống...22 người chết , trong đó có Em.

Thời gian trôi qua , con Em đă trưởng thành , Em có cháu nội trai rất thông minh , học giỏi. Con trai Em hănh diện mỗi khi gặp các Bạn cũ của Em nói về Em với những lời thán phục .

Viết để nhớ đến Em .

thanhthuy

 

BẠN TÔI

Đă viết 1 bài về lớp đệ thất của tôi ( kỷ yếu 2005 ).

Hôm nay xin viết về năm học đệ....lục và người bạn tên Kim Oanh .


Sáng hôm đó t́m được pḥng học ở trên lầu 2 , tôi đă thấy lớp gần đầy học tṛ , tất cả chỗ của các bàn đầu đều có người ngồi , nh́n đến dăy bàn thứ 2 h́nh như cũng không c̣n chỗ trống , hơi thất vọng th́ thoáng thấy bàn thứ hai ở dăy trong cùng phía bàn giáo sư có bạn ngồi xích vào trong để trống chỗ ngồi ngoài ...h́nh như bạn có ư mời tôi ngồi cùng .... hơi e ngại không biết có đúng không , nhưng tôi cũng đi đến và ngồi vào chỗ vừa...trống đó.

Không nhớ là mấy ngày sau th́ biết tên và nói chuyện qua lại thân t́nh. Bạn thỏ thẻ nói .

- Thủy có nhớ Oanh không , hồi lớp nhất tụi ḿnh học cùng lớp ở trường Trương Minh Giảng ?

Mèn....tôi không nhớ ǵ hết ( sorry Oanh ) , nhưng mừng quá v́ gặp đồng minh của thời tiểu học......

Kim Oanh , bạn hiền và dịu dàng qua cử chỉ , lời nói , khác với tôi lúc nào cũng sẵn sàng cười đùa trêu ghẹo để cười ha hả....( thứ ba học tṛ mà )

Suốt năm học đệ lục , Oanh và tôi hợp nhau , chưa giận nhau lần nào , chia nhau từng miếng quà vặt.

Oanh có tính nhường nhịn , lần cô Lĩnh dạy sử địa khen Oanh có nước da trắng , ngồi bên cạnh tôi nói đùa lại ngay : em.....trắng hơn cô ơi . Cô cười và bảo đúng rồi , Thủy cũng trắng lắm....Oanh cũng dịu dàng nói thêm : Thủy trắng hơn Oanh thật đấy . Oanh dễ thương làm sao.

Oanh rất khéo tay , Oanh đă cắt cho tôi một mẫu áo ngắn tay bằng giấy báo , từ mẫu giấy đó đặt lên vải , tôi tự may cho ḿnh được mấy cái áo.

Một lần có bạn nào đó hỏi tôi về một mẩu giấy viết lăng nhăng ǵ trên ấy , có phải là nét chữ của tôi ? , tôi chưa kịp trả lời , th́ bên cạnh tôi có tiếng nói rơ ràng của Oanh với bạn ấy : không phải chữ của Thanh Thủy.
Tôi cảm động quá , Kim Oanh thùy mị dịu dàng , nhưng cũng quả quyết và can đảm , dám nói và bênh bạn ra mặt.


Những năm sau đó , chúng tôi mỗi đứa một lớp , nhưng t́nh bạn vẫn kéo dài theo năm tháng , gặp nhau qua giờ ra chơi hay ngày chủ nhật tôi đến nhà Oanh chuyện tṛ.

Ngày gần cuối tháng 4 / 75 chúng tôi c̣n gặp nhau chia sẻ chuyện thời sự.....

Hơn 20 năm sau , tôi vẫn thắc mắc trong ḷng về cô bạn dịu hiền đang ở đâu? nhưng không biết hỏi ai .

Một hôm ,chú Hùng em trai kế của anh Long cho biết là có diễn đàn QGNT và sắp có đại hội tại San Jose 2003 . Ngay hôm đó , nhờ anh Long chỉ cho tôi cách dùng computer và vào diễn đàn , tôi liên lạc được với K Điệp , từ K Điệp tôi biết tin Kim Oanh lúc đó đang trên đường đi Âu Châu . Oanh gọi cho tôi từ phi trường Lax.

Thế là chúng tôi nối lại t́nh thân b́nh thường như chưa bao giờ gián đoạn .

Trong ngôi trường QGNT , tôi đă có thật nhiều kỷ niệm của thời tuổi trẻ, như ngôi nhà xưa ở đường Trần quang Diệu , luôn luôn sống động trong trí nhớ.


Xin Tri Ân Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân .

Xin Tri Ân Thầy Cô Tận Tâm Dạy Dỗ .

Xin Tri Ân Tất Cả Quư Vị Đă Đóng Góp Và Xây Dựng Trường Quốc Gia Nghĩa Tử.

thanhthuy
 

 

 

TÔI & TRƯỜNG Q

..đó là khoảng sau Xuân Mậu Thân, hai năm sau khi Ba tôi tử trận,ṿng tang trắng chưa tan buồn...mảnh khăn sô chưa rời trán...lại một lần nữa Mẹ tôi gạt nước mắt ôm lũ con chắt chiu 6 đứa mà đứa nhỏ nhất đă vấn khăn tang từ trong bụng Mẹ, về lại Saigon ...v́ gia sản nhỏ nhoi đă tan tành trong chiến trận vùng Ban mê đất đỏ...
..tay trắng...


tôi là "xếp" của lũ nhóc 5 đứa...áo dài trắng xổ gấu, mảnh khăn sô vắt vẻo ngang đầu, kiễng chân lên th́ cái mũi tḥ qua được ngang cửa sổ của các bureaux nơi Bộ Cựu Chiến Binh , lúc bấy giờ ở đường Trương Định bây giờ, Mẹ đi làm, tôi một tay viết đơn, tự kư tên Mẹ,dĩ nhiên là có theo chỉ đạo của Mẹ, đi xin lại phó bản các loại sổ sách đă cháy theo "cuộc chiến mùa Xuân"...


tôi nhớ là nhiều loại sổ...Sổ Hưu dưỡng chuyển quyền - Sổ Trợ cấp QGNT- Sổ Trợ cấp Quả phụ.....Đeo đuổi nhiều loại sổ trong nhiều ngày ..ra vào Bộ CCB đến quen mặt các bác Quân cảnh...v́ có lẽ tôi là người "trẻ" nhất ra vào BCCB những ngày tháng đó, nữ sinh Trung học Đệ nhất cấp mà! đệ ngũ lận !


xếp hàng sau tôi là 1 cô em đệ thất , 2 học sinh ...Tiểu học , 1 ..trẻ mẫu giáo và 1 nhóc tỳ lẫm đẫm biết đi...


Ngày ấy,
Mẹ đi làm công chức ngày hai buổi miệt mài xe bus...
các em học trường công được uống sữa giữa buổi nhưng các phụ phí cũng là một gánh nặng...


...một buổi trưa ngồi chờ lấy sổ, nghe hai bác thương binh nói chuyện về một ngôi trường ở tuốt ngă tư Bảy Hiền nhận con thương binh, quả phụ vào học miễn phí, nghe đâu c̣n được ..đi du học! Thiệt là không biết ḿnh mơ hay tỉnh....


"xếp" nữ sinh đệ ngũ t́m đường xe lam , xe bus đến ngă tư Bảy Hiền ..vào trường với đầy đủ giấy tờ liên quan đến Ba, một người lính nằm xuống , từ bản Tướng mạo quân vụ đến giấy Khai tử và bản án QGNT..tôi vào văn pḥng và gặp một thầy ở pḥng Học vụ , sau này tôi biết là Thầy Hồ, nhiều câu hỏi ...nhiều chất vấn..v́ một đứa 14 tuổi đi xin học cho một đứa 12 tuổi...em tôi được nhận vào trường..một đứa , rồi năm sau thêm 2 đứa nữa, các học sinh Tiểu học vào Trung học...


...hai năm sau tôi mới vào trường ở bậc trung học đệ nhị cấp, lớp đệ tam...và ngay lập tức ứng cử chung liên danh với Lương thị Điều thành một thành viên trong B Đ D HS năm ấy ...
...ba năm sau, khi thời thế đẩy xô, gia đ́nh tôi dọn về vùng Bảy hiền , Mẹ tôi mới biết ngôi trường các con theo học, ngôi trường là vị cứu tinh của gia đ́nh...


không có ngôi trường QGNT, biết đâu các em tôi đă phải thất học hoặc rất lận đận lao đao trên đường học vấn rồi!
..tôi vào trường sau và ra trường trước , các em tôi c̣n được ở trường đến năm 75...


...và nếu không có một ngày tháng tư năm 75...các em tôi đă được là những Q 79...Q 80...Q 84.....
......Trường ơi ! ...Trường ơi ! ...


kimthanh

 

......lúc -dó , tôi dược hơn năm tuổi th́ có người -dến báo là thầy tôi tử trận, sáng hôm sau me tôi dắt tôi và ông anh -dón xe -di Tây Ninh, nơi tiểu -doàn thầy tôi -dóng quân.

....vào một nơi tôi không biết là nhà thương hay nhà xác, thầy tôi nằm -dó, chung quanh có dốt nhiều cây nến, tôi c̣n nhớ là mẹ tôi khóc lóc thảm thiết lắm......năm -dó là năm 1960.........

Sáu năm sau th́ tôi -dược vào học dê, thất trường QGNT , là trường công nhưng tôi không phải thi vào như các trường công khác.........

Một QGNT73

 

 

NGUYỄN TRƯƠNG HIỂN
(trích giai phẩm trường Quốc Gia Nghĩa Tử -1973)
Tâm sự một Quốc Gia Nghĩa Tử


KHÚC QUANH

C̣n cha gót đỏ như son
Đến khi cha mất gót con đen ś



Ngày giỗ đầu cha tôi đến thật ngỡ ngàng. Vậy là đă hai mươi bốn tháng qua đi lúc nào tôi không hay biết.

Hôm ấy, đang say sưa theo bài giảng, th́ chị tôi đến lớp, chỉ kịp báo cho tôi: "Cha mất rồi". Và ̣a lên khóc. Tôi đứng sững sờ, không biết có khóc được như chị hay không, lặng lẽ xin phép thầy, bỏ mặc lũ bạn ngơ ngác nh́n theo, tôi chạy về nhà cùng chị.

Chiếc quan tài phủ quốc kỳ đặt ngang trước cửa. Mẹ tôi vật vă khóc. Mấy em tôi cũng khóc. Tôi không hiểu chúng khóc theo mẹ hay đă biết mất cha là khổ, v́ thật ra chúng chưa đến tuổi để thấy sự cần thiết của người cha nhất là người cha làm lính trận. Tôi lặng người bên mẹ tôi. Một ư tưởng thật mơ hồ: "Cha tôi nằm trong chiếc quan tài đó". Tại sao? Tại sao lại có thể vậy được? Người ta có thể nhầm lẫn một kẻ nào đó là cha tôi không. Một sự nhầm lẫn tai hại như vậy, không phải là không thể có giữa lúc này, giữa lúc cường độ chiến tranh gia tăng khủng khiếp, giữa lúc hàng ngàn, hàng vạn người ra đi và ngă gục. Nhưng trước mặt tôi, chiếc quan tài phủ quốc kỳ, tấm h́nh bán thân cha tôi. Tấm h́nh ông chụp trong ngày lễ thăng chức, nét mặt rạng rỡ tươi vui, hoa mai thật mới cài trên cổ áo. Trong chiếc quan tài chật hẹp đó. Tấm thân cường trángcủa ông đă mang bao nhiêu vết đạn. C̣n nguyên vẹn hay đă một phần nào mất đi. Đă bao lần thay thêm lớp kẽm bọc. Và linh hồn ông, chưa bao giờ tôi có ư niệm rơ rệt về linh hồn như hiện tại, đang rong đi xứ lạ hay cũng về đây. Quanh quất đâu đây chứng kiến cảnh mẹ và các anh em tôi lúc này. Bao nhiêu ư nghĩ về ông quay cuồng, xoáy lốc tôi vào cơi sa mù. Tôi run lên sững mắt nh́n h́nh ông, nh́n quan tài ông, nh́n mẹ tôi, nh́n chị và em tôi. Có lẽ mắt tôi cũng sũng ướt, cũng đỏ hoe. Nhưng tôi không khóc. Tôi không thể khóc được như mẹ, như chị, như em tôi ... Nhiều người đến thăm viếng, cũng có kẻ hiếu kỳ đến xem. Vài người vận quân phục, h́nh như bạn đồng đội cha tôi. Nhưng tôi không nghe ǵ cả. Dù những ǵ xảy ra th́ ông cũng đă nằm đó trong chiếc quan tài bọc kẽm. Và đây là mẹ tôi, anh chị em chúng tôi. Thật xa cách!

Cho đến ngày đó, một ngày khó quên. Sau gần mười hôm bỏ nhà đi hoang. Mẹ tôi chạy khắp nơi t́m kiếm, Bà gặp tôi đang nằm trên ghế đá công viên, không la rầy, mà bà chỉ ngồi khóc. Khóc thật lâu "Cha con đă bỏ mẹ, bây giờ con c̣n muốn mẹ phải thế nào?".

Phải thế nào? Phải thế nào đây hở mẹ?
Con, một thằng con vừa mới lớn, đang sống với bao mộng ước mai sau. Bỗng đâu sụp đổ tan tành. Cha mất đi. Mất tất cả. Con biết làm ǵ đây với đôi tay nhỏ bé này. Rồi một ngày nào đó, một ngày rất gần con cũng vào lính. Con cũng tiếp nối thân phận làm người như cha con ...
Nhưng không! Con thật vô lư, con đă thấy rồi. Mẹ ơi, Con đă thấy sai lầm nơi con. Tại sao con có thể vô lư vậy được. Tại sao con lại đồng lơa với cái chết của cha con để hành hạ mẹ. Tấm thân gầy guộc đó, mẹ được hưởng những ǵ từ ngày về với cha. Những ngày tháng mong đợi. Những đêm dài thức trắng cầu ngyện cho cha trong cuộc hành quân. Nhiều lần mẹ đă đi bộ hàng chục cây số đến thăm cha nơi vị trí đóng quân v́ đêm rồi, hướng đồn cha, mẹ nghe thấy nhiều tiếng súng, nhiều ánh hỏa châu, mặc dù đường đi nhiều ḿn bẫy, mặc dù vừa trông thấy cha, mẹ đă bị cha rầy và cho lính đưa về. Mỗi lần đơn vị cha trở lại hậu cứ, cha c̣n bận họp chưa về, mẹ đă hốt hoảng lên, chạy ngay vào doanh trại t́m hỏi tin cha. Gia đ́nh ḿnh vốn không ngoan đạo nhưng những năn gần đây mẹ thường lễ chùa và không một đêm nào mẹ quên tụng kinh cầu nguyện. Vậy mà bất hạnh vẫn đổ dồn xuống. Mẹ làm ǵ nên tội! Cha chết đi. Bây giờ ông đă yên mồ, yên mả. Tổ quốc ghi ơn ông. Nhưng mẹ và chị em chúng tôi mất ông, vĩnh viễn mất ông. Mẹ ơi bây giờ con về đây. Con về đây để làm một thằng con của mẹ để sống trong t́nh thương của mẹ ...

Mùa hè lại tới nắng vàng chói chang như đem lại ấm áp cho gia đ́nh tôi. Tuy công việc buôn bán tảo tần quá mệt nhọc cho mẹ tôi, nhưng bà không thiếu chăm sóc chúng tôi. Tôi ở nhà trông em giúp chị và thỉnh thoảng chạy ra quày hàng với mẹ tôi. Từ ngày lănh thêm số tiền trợ cấp mẹ tôi đă sang được sạp vải trong chợ nên gia đ́nh không đến nỗi túng quẩn. Chị tôi cũng trở lại b́nh thường. Công việc nhà dần dần quen đi không làm chị khó nhọc mấy. Những lúc rỗi, chúng tôi đem sách ra học chung chờ niên khóa tới chị tôi vào học lớp đêm và tôi vào QGNT.

Những ǵ đến rồi cũng đến. Bây giờ tôi đă được vào trường Kỹ thuật QGNT. Với những bạn bè cùng cảnh ngộ, với những thầy cô hiểu biết ḿnh hơn, tôi thấy bớt đơn lẻ. Tôi mất đi nhiều mặc cảm của kẻ mất cha -- Mất cha là đồ mất dạy -- Nơi đây, một môi trường cho tôi nhiều an ủi. Tôi đă t́m thấy lại t́nh thương nơi các thầy khả kính. Tôi như một vật tiềm sinh vừa gặp môi trường sống để nảy nở.

Và nay, ngày giỗ đầu cha tôi. Thật, tôi không nghĩ thời gian qua nhanh như vậy. H́nh hài ông dễ đă tan vào cát bụi. Nhưng linh hồn ông, không biết có hài ḷng với mẹ con tôi, bắt đầu thích nghi với nếp sống hiện tại? Mẹ tôi đứng lên khấn vái, bà nh́n h́nh cha tôi thật lâu rồi nh́n chúng tôi. Tôi đến đứng sát cạnh bà, một làn hương ấm áp từ mẹ tôi tỏa trùm ôm ấp cả chúng tôi. Hơn lúc nào hết tôi đă cảm nhận được thật đầy đủ cái ư vị đậm đă của câu ca dao;

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một như đường mía lau

NGUYỄN TRƯƠNG HIỂN 9/2

 

Mái trường xưa ... và Tôi
Nguyễn Sỹ - K1
 


Thời gian trôi qua nhanh quá! Mới đó mà đă 43 năm. Tôi giờ tóc đă pha sương, ngồi đây lục t́m trong vùng kư ức xa mờ, cái thưở mới bắt đầu bước vào năm học đầu tiên thời trung học.
Cuối mùa thu 1967, trường Q khai giảng năm học đầu tiên khóa 1 (1967-1968). Tôi thật sự ngỡ ngàng v́ ngôi trường chỉ là một dăy nhà ngói đỏ nằm khiêm tốn cạnh cây me già cổ thụ, lọt thỏm phía sau khu đất rộng lớn ngay trung tâm thành phố, được bao bọc bởi bức tường vôi cũ loang lổ rêu phong ... cỏ mọc um tùm. Bấy giờ thầy hiệu trưởng là thầy Nguyễn Ích Xuân, thầy Lê Ngọc Xuất thư kư và hai vị giáo sư: cô Tŕnh Thị Ngọc Bích, giáo sư hướng dẫn lớp đệ thất 1 (nữ sinh), Thầy Hoàng Trọng Nồng, giáo sư hướng dẫn lớp đệ thất 2 (nam sinh). Hai lớp khoảng non 100 học sinh và chú cai trường Đặng Lỡ. V́ thiếu giáo sư nên thầy Nồng và cô Bích dạy tất cả các môn học. Chính v́ ít thầy, cô và học tṛ cũng không đông nên tất cả chúng tôi đầu thân nhau. Học sinh khóa 1 chúng tôi cùng học, cùng chơi, cùng về nhà thăm thúc nhau dù trai hay gái để rồi đến bây giờ vẫn c̣n gặp lại nhau, vẫn thương yêu nhau từ "cái thưở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm hồ dễ mấy ai quên".
Hồi đó chắc tôi học cũng được, chữ viết cũng khá nên được chọn viết ba/ng trong các môn học của cô Bích và thầy Nồng cho các bạn chép vào vở. Chắc nhờ chuyện viết bảng nên tôi luôn được gần gũi thầy, cô và cũng là động lực cho tôi không dám lơ đăng chuyện học. Nhờ thế tôi trở thành học tṛ cưng của thầy Nồng, cô Bích. Kết quả của năm học đầu tiên, tôi được nhất lớp, lănh 2 phần thưởng danh dự và hạnh kiểm toàn trường. Ôi sung sướng và hạnh phúc quá!
Sang năm sau (1968 - 1969), trường tuyển vào 2 lớp đệ thất (K2) và được bố trí học ở dăy nhà lợp tôn nóng và nóng. Thật tội nghiệp! Thầy hiệu trưởng Nguyễn Hoa về thay thầy Nguyễn Ích Xuân từ giữa năm học trước, cô Trần Thị Mai Hoa về dạy Lư Hóa, Cô Bùi Thị Phương Lan dạy Sử Địa, Cô Hoàng Thị Yên dạy vẽ, thầy Nguyễn Văn Ngọc dạy Việt Văn, thầy Vĩng Điện dạy nhac, thầy Quế và cô Ngọc dạy Toán ... Thầy và tṛ có tăng lên nhưng vẫn nội trú với nhau dưới hai dăy nhà cũ kỹ, thấp tè ấy; Mùa hè th́ nóng đổ lửa, mùa mưa th́ ́ ầm không học được. Phía bên hông trường có một khoảng sân rất rộng làm sân bóng đá, cuối sân có một giếng nước để tắm rửa sau khi đá banh, thật tiện. Buổi chiều không có giờ học, lũ nam sinh chúng tôi rủ các bạn cùng trang lứa ở trường Phan Châu Trinh qua đấu giao hữu và rèn luyện với nhau. Ngoài ra c̣n có một bàn bóng bàn do thầy Hoàng Trọng Nồng tạo dựng, đặt ở dăy nhà lợp tôn, giờ ra chơi học sinh chúng tôi ùa xuống giành chỗ. Lớp tôi có 2 bạn chơi bóng bàn tốt là bạn Phạm Tấn Dũng và Trương Ḥa.
Niên khóa 1969 - 1970, tôi lên lớp đệ ngũ, trường cũng chỉ tuyển 2 lớp đệ thất mới, cũng được học dưới mái nhà tôn được sửa của dăy nhà kho, ôi thôi tội nghiệp (cũng nắng không ưa, mưa không chịu) cho đàn em thân yêu. Tổng số học sinh gần được 300. Nam này có thầy Phạm Đ́nh Thưởng từ ty Thể Thao về dạy Thể dục thể thao, thầy Huỳnh Sơn Cương dạy toán, thầy Nguyễn Nhung Đích dạy Anh van. Nhớ nhất la thầy Đích khi thi học kỳ, thầy cho kéo cái máy phát âm của Mỹ phát ra câu hỏi mà giọng đọc rất khó nghe bằng tiếng Anh làm chúng tôi phải vất vả lắm mới trả lời được.
Niên khóa 1970 - 1971, tôi vào lớp 9, trường lại tuyển thêm 2 lớp 6, tổng số học sinh khoảng 400. Thầy Định Đương về dạy Lư Hóa, thầy Phan Đ́nh Ánh dạy Anh văn ... Cũng năm này, t́nh h́nh chiến sự bắt đầu gia tăng, một số bạn bè cùng lớp nhưng lớn tuổi đă chuẩn bị lên đường nhập ngũ. Tôi lo quá nên học nhảy lớp. Tôi xin vào học lớp 10 trường Văn Hóa Quân Đội, học ban đêm nên rất bận rộn cho việc học.
Niên khóa 1971 - 1972, chúng tôi hân hoan vào học ngôi trường mới, ngôi trường hoành tráng, hiện đại vào loại nhất nh́ của thị xă Đà Nẵng. Thầu hiệu trưởng Tôn Thất Dương Kỳ từ trường Phan Châu Trinh chuyển về, cô Tạ Đạo Huệ dạy Anh văn, Cô Nguyễn Thị Như Huệ dạy Lư Hóa, cô Nguyễn Thị Hạnh dạy Sử Địa ... Trường cũng tuyển vào 2 lớp 6 nữa, nhưng tới lúc này chúng tôi không c̣n phải chen chúc trong những căn pḥng chật chội, nóng bức nữa. Trường bây giờ đă trở thành trường đệ nhị cấp vớoi 2 lớp 10 đầu tiên là 10A và 10B. Tôi học lớp 10B. Cũng năm này lớp chúng tôi chia tay mấy bạn đi lính: Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Văn Sơn, Trần Ngọc Biên, Lại Thế Bàng ... và Nguyễn Hữu Cầu tử trận mùa hè 1972, cả lớp ngậm ngùi đưa bạn về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm này tôi vừa theo lớp 11 đêm ở trường Phan Châu Tring lại vừa học lớp 10 ở trường Q. Vất vả thế nhưng không hiểu sao tôi vẫn không từ giă nổi ngôi trường Q. thân yêu đă cưu mang tôi những năm tháng học tập, vui đùa, sinh hoạt cùng thầy cô bè bạn nơi đây. Và năm học đó, tôi may mắn đậu tú tài I nên phải rời trường Q. mà đi.
Tôi chuyển về học lớp 12 Phan Châu Trinh, nhờ vậy mà tôi có điều kiện học thật tốt, cuối năm này tôi đậu tú tài II và vào Sài G̣n học Đại học (1973 - 1974).
Tuy học Phan Châu Tring hay Đại học Sài G̣n, nếu có dịp tôi quay về trường Q. để thăm trường, thầy cô và bè bạn, nhất là thầy Nồng và cô Bích v́ 2 cô thầy có nhà ở phía sau trường.
Mùa hè 1975, tôi trở lại th́ trường vẫn c̣n đó mà thầy cô và lớp học sinh đàn em không c̣n gặp được ai cả. Đi về phía sau trường, những ngôi nhà quen thân thưở nào giờ cũng vắng bóng thầy cô. Tôi giă từ trường Q. mà ḷng trống vắng không nguôi.
Sau 1975, tôi vẫn tiếp tục học và làm việc tại Sài G̣n. T́nh cờ, năm 1978 tôi gặp lại thầy Nồng ở Bàu Cá Đồng Nai trong chuyến đi thăm người chị họ cũng từ miền Trung vào lập nghiệp ở đây. Cuộc hội ngộ thật bất ngờ, thầy tṛ mừng vui khôn xiết. Từ đó, thỉnh thoảng tôi ra thăm thầy. Sau đó ít năm, thầy Nồng cũng về ở cư xá Lữ Gia Sài G̣n. Qua thầy Nồng, tôi gặp được cô Mai Hoa cũng đang sống ở Sài G̣n.
Năm 1991, người bạn duy nhất lớp tôi ngày xưa trường Q. Đà Nẵng được du học Tây Đức lần đầu tiên về thăm quê hương sau thời gian dài xa cách, đó là Vơ Xuân. Bạn t́m gặp được tôi và đề nghị mời thầy cô trường Q. Đà Nẵng tại Sài G̣n ăn tiệc. Buổi tiệc hôm ấy gồm thầy Hoàng Trong Nồng, cô Mai Hoa. Và các bạn Trần Kỳ, Nguyễn Ngọc Kiệm, Vơ Xuân và tôi. Sau buổi tiệc, bạn Vơ Xuân đề nghị đi thăm bạn Ly Hương và thắp nhang cho bạn Quốc Minh (Ly Hương, Quốc Minh cùng khóa K1 với tôi ở Q. Đà Nẵng nhưng chuyển về học Q. Sài G̣n năm 1970 - 1971) Quốc Minh bị tai nạn điện giật mất vào hè 1974 sau khi đậu tú tài. Tại đây, chúng tôi được mẹ Ly Hương, Ngọc Ánh mời đám giỗ Quốc Minh những ngày sau đó, đồng thời gởi lời mời thầy Nồng và cô Mai Hoa dự. Có đầy đủ thầy cô bạn bè cho ngày kỵ Quốc Minh năm ấy. Không khí thân t́nh, nghĩ t́nh thầy tṛ nặng trĩu sau thời gian dài mới được hội ngộ. Thầy tṛ chúng tôi mới đề xuất họp mặt hàng năm, và từ đấy Hội Cựu Thầy Tṛ Q. Đà Nẵng chính thức ra đời. Ban đầu, mỗi năm tổ chức họp mặt 2 ngày là 30 tháng 4 và 20 tháng 11. Lúc này t́nh h́nh kinh tế c̣n khó khăn, không có nhà hàng để đặt tiệc, nên trong số học sinh, hoặc thầy cô có nhà cửa tương đối rộng răi th́ đăng cai tổ chức. Những năm đầu, thầy cô của trường c̣n ít: thầy Hoàng Trọng Nồng, cô Trần Thị Mai Hoa, cô Minh Tâm, sau đến cô Nguyễn Thị Ái, thầy Huỳnh Sơn Cương.
Năm 1966, Q. Đà Nẵng tại Đà Nẵng tổ chức họp mặt tri ân thầy cô đầu tiên vào ngày 30 tháng 4 năm 1966 và lần lượt các năm kế tiếp, song song hai nơi Sài G̣n - Đà Nẵng tổ chức họp mặt tri ân thầy cô: Đà Nẵng (30 - 4) và Sài G̣n (20 -11). Đà Nẵng tổ chức th́ thầy cô và bạn bè ra dự đông vui và ngược lại.
Năm 2004, nhân ngày 20 tháng 11, thầy HT Nồng đă bắc cầu thân ái cho thầy và tṛ Q. Sài G̣n tham dự ngày tri ân thầy cô Q. ĐN tổ chức, thật là nghĩa t́nh. Trong này có thầy Nguyễn Sơn, cô Thủy Tiên, thầy Xuân Đạo, các chị Yến Nhi, Khánh Ḥa, Kim Sơn ...
Năm sau, qua thầy Nồng, Q. Huế cũng xin được gia nhập vào Q. Đà Nẵng. 20-11-2005 thật đông vui: Q. ĐN, Q. SG và Q. Huế, có thầy hiệu trưởng Bửu Đôn, thầy Thoan, các bạn Trần Đ́nh Diên, Thu Mịn, Kim Chi và Vĩnh. Cũng năm này, bạn Đặng Tài, một thành viên tích cực của Q. ĐN lại bỏ thầy cô và bạn bè ra đi v́ bệnh tật. Ngày an táng bạn có đông đủ thầy cô và bạn bè đưa tiễn. Một nén nhang thơm thắp cho bạn. Cô Mai Hoa thường nhắc tới bạn mỗi khi họp 20 - 11.
Ngày 14 tháng chạp năm Bính Tuất, nhằm ngày 13 tháng 1 năm 2006, thầy Hoàng Trọng Nồng - người thầy hiền từ khả kính với lối sống chân t́nh giản dị, luôn chăm lo và dơi theo sự thành đạt của từng học sinh chúng tôi trong suốt chặng đường 38 năm cũng từ giă cơi đời trong lúc tuổi đời chưa cao lắm. Ngày thầy mất, cả trường đi viếng thầy, cô Mai Hoa đề nghị tôi viết điếu văn ngay trong đêm tẩm liệm thầy và ngày đưa thầy về nghĩa trang Đa Phước, thầy tṛ Q. DN-HSG xếp hàng mang ṿng hoa tiễn thầy đi trong sự tiếc thương vô hạn. Một nén nhang thơm tưởng nhớ thầy.
Sáu tháng sau, bạn Bạch Tuyết khóa 2 cũng bỏ bạn bè và thầy cô ra đi một cách đột ngột để lại nhiều tiếc thương cho thầy cô, bạn bè và chồng con nỗi đau đớn khôn nguôi.
Thời gian rồi sẽ qua đi, thầy cô càng ngày càng già yếu, trường xưa chỉ c̣n trong kỷ niệm, tất cả chúng ta hăy dành nhiều thời gian nghĩ về khung trời dấu yêu, nơi chất chứa đầy ắp t́nh thương yêu và đùm bọc lẫn nhau, giữ măi t́nh thầy tṛ, nghĩa bằng hữu.
Tám năm học một ngôi trường.
Tháng 10 - 2010

 

 

 

 

KỶ YẾU TRƯỜNG
QUỐC GIA NGHĨA TỬ (1)

Trần Ư Thu

Kỷ yếu trường lập nên đua nở.
Về Thầy Cô mẫu mực khuôn bờ.
lời vàng thước ngọc mong chờ,
từng câu chọn lọc trên tờ giấy ghi.
Học tṛ thi, hạ chia ly,
đây lưu bút chuyển từ khi phượng hè.

Kỷ niệm về một thời son trẻ.
Người sinh thành lặn lội trăm khe.
Gian truân vất vả nào e,
tay chèo vững lái thuyền bè lướt nhanh.
Học nên danh, được công khanh,
hy sinh của mẹ, ơn sanh đáp đền.

Kỹ xảo nghề hướng tương lai đến.
Mong song toàn đảm lược vang rền .
Công danh toại nguyện hưng nền,
câu mừng chúc tụng nay tên bảng vàng.
Học ngày càng, vẻ vang làng,
thiên đường xuất ngoại, lên đàng mở mang.

Kỷ vật cầm chứng từ là Án.(2)
Đàn con thơ bé bỏng chăm an .
Khăn sô mẹ thắt dài gang,
cô nhi tử sĩ hành trang cột rường.
Học can trường, được kiên cường,
và cờ tổ quốc người sương gió dành.

(1) 1963- 2013 .
(2) Án công nhận cô nhi tử sĩ.

 

NĂM MƯƠI NĂM TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ-
MANG T̀NH NGHĨA CHA(*)

Trần Ư Thu

Xuất phát ḷng hậu thế khả sinh.
Năm mươi năm hoài niệm hành tŕnh.
Quốc Gia Nghĩa Tử thành h́nh,
ngôi trường được lập mang t́nh nghĩa cha.
Ơn cao cả nặng ḷng ai xả.
Bỏ mạng v́ non nước chiến sa.
Hai vai trách nhiệm bao la,
cờ vàng phất phới sơn hà thủy chung.

Xung phong trận hải hồ anh dũng.
Thủy chiến ba đào thệ tận trung.
Đi theo tọa độ ṿng cung,
đây bờ cơi giữ hành tung địch lần.
Cờ đoàn dấu hiệu trường giờ vẫn.
Hậu duệ tương lai sẽ dấn thân.
Giang sơn gánh nặng ngàn cân,
ngôi trường nhập học chuông ngân miệt mài.

(*) 1963 - 2013
12/10/2012

 

 

Bài thơ Nghĩa tử ...

Cha tôi ..
người lính Việt Nam Cộng ḥa
sống oai hùng - vẫy vùng tứ phương
B́nh dương - Biên ḥa - Phú quốc - An giang
V́ lư tưởng tự do - chống cộng sản
dấu chân chiến sỉ hiên ngang diệt thù .

Một hôm ... trời nổi sương mù
anh hùng thọ nạn
bất hứa nhân gian kiến bạc đầu ...
ba mươi ba lần ...xuân hạ thu đông
thời gian dừng lại trên bia mộ .
vợ trẻ - con thơ - lệ đổ ... bên đời !

người góa phụ hai mươi bốn tuổi
ba trẻ mồ côi thơ dại .. ( 3 , 5 , 1 tuổi )
dắt díu nhau ... cuộc sống đ́u hiu !

dù trải qua bao nỗi truân chuyên
người vợ trẻ vẫn bền ḷng kiên định
Thờ chồng - nuôi con ...
Cánh c̣ ..một nắng hai sương
cô đơn lặng lẽ nuôi con - thờ chồng

bên băi vắng cố ngăn giọt lệ
ngẩn cao đầu - góa phụ kiên trinh
thời gian chầm chậm trôi đi
con dần khôn lớn ...
Việc ăn - chuyện học - chuyện ở - chuyện chơi
Một tay Mẹ ..gánh gồng chừ ..đuối sức !

May thay ...
năm 1963
Chính phủ Việt nam Cộng Ḥa ..
Với chính nghĩa rạng ngời lư tưởng tự do
Để đền ơn tử sĩ vị quốc vong thân
Quyết tâm xây dựng trường trung học Quốc Gia Nghĩa Tử
Dành cho các con của Tử Sĩ qui tụ về đây
Được Chính phủ nuôi dạy học hành ..chu tất
Xây nhà nội trú ..cho các em ăn ở
Điều kiện ưu tiên .. du học Mỹ quốc - Đài loan ..!

.
Năm 1963 - niên khóa đầu tiên
trường thu nhận hoc sinh vào học
các bà Mẹ góa phụ vui mừng hớn hở
V́ các con từ nay
đă có trường riêng yên ổn học hành .
không c̣n lo chuyện thiếu tiền ..học phí
lại có nơi ăn chốn ở ấm êm
được sống an lành trong ṿng tay của chính phủ .

Các em - con Tử Sĩ
hảnh diện bước vào ngôi trường mới
bên Thầy Cô hết ḷng dạy dổ
cùng bạn bè , một cảnh ngộ Cha hy sinh
học - và sống
trong lư tưởng Quốc Gia oai hùng cao cả .
rèn luyện thân - tâm
trở thành người hửu dụng .
Trai tài gánh vác non sông
Gái tứ đức - tam ṭng vẹn vẽ.

Và từ đó đến nay ...
năm mươi năm
học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử ..
như cánh chim bay khắp bốn phương trời
Vẫn một ḷng hướng về ngôi trường cũ
( dẫu bi chừ ..thương hải biến vi tang điền ! )
Thương tổ quốc ..trong cơn ly lọan
Nhớ trường xưa .. đau đáu nỗi niềm
hoc sinh Quốc Gia Nghĩa Tử
Một ḷng chung tay kỷ niệm năm mươi năm
ngày thành lập Viện Giáo Dục QUỐC GIA NGHĨA TỬ
nơi nuôi dạy con em của Tử Sĩ vị quốc vong thân

Tôi nhớ trường xưa ..nhớ rất nhiều
thầy cô - bè bạn .. bao mến yêu
một thời áo trắng bay trong gió
chỉ học - và mơ ... chẵng lo chi .

Năm mươi năm .. thời gian qua đi
bao nỗi đau thương - quê hương ly lọan
thương dân khổ - thương nước nhà trong cơn nghiêng ngả
thương - thương lắm ..người ơi ..những bạn đồng môn.

ngày 7 tháng 7 năm 2013
ta gặp lại nhau
san jose .. hoa vàng nắng ấm
để nhớ nhiều .. con đường Vơ Tánh - mái trường xưa
nhớ Thầy Cô - bè bạn ...
người mất - người xa
thời gian đi qua .. pha sương mái tóc
c̣n ǵ cho nhau
c̣n ǵ để mất .
nay
chỉ c̣n
kỷ niệm .. của Trường xưa !

nnh

 

 

 

 

 

Nhớ về trường xưa

Để noí vơí nhau về ngôi trường xưa
Biêt' bao trang giâư mới cho vưà
Một thuở - buôỉ đâù xôn xao âư
Một thuở - ngỡ ngàng .. vơí bạn .. vơí ta

Năm Đệ thất - vừa mơí qua mât' mat'
Cha hy sinh - Mẹ vât' vả bôn ba
Ta bở ngở bước vạ trường lớp lạ
Vui - buồn không biêt' - caí ǵ- sẻ traỉ qua .

Bạn mới - xem ra - trường cũng mơí ..
Nhưng quen ngay khi biết ai cũng là
Mất cha - nên mới vào nơi đó
Hai dãy lớp song song - sáng sáng đến trường .

Cac' anh - các chị - cũng như ta
H́nh như ai ai cũng mât' cha
Th́ ra - bốn chử .. Quốc Gia Nghiă Tử
Mình đã hiêủ rố ... nghiă tử quôc' gia .


Rố từ đó - t́nh thân như xiêt' chặt
Anh- chị bạn bè - trường lơp' - Thầy - Cô
Ngôi trường đặc biệt - tình rât' đậm.
Một chử " T̀NH " mà tôi phaỉ viêt' hoa ..

Bảy năm trung hoc. - thời gian âư
Hoc. chữ - hoc. nghề - học cả t́nh thân
Học Nhân Nghiă - học Đaọ Đức ở tấm ḷng
Học đâỳ đủ "Cách Làm Ngướ" đậm nét

Tôi được dạy - không chỉ là tri thức
Mà được dạy cả - tư duy - dạy cách làm ngướ
Thầy Cô dạy - không chỉ bằng lớ nói
Bằng cả t́nh ngướ - bằng cả traí tim

Tư duy đó lớn dần theo năm tháng
Đã biêt' nh́n - biêt' nhận xet' đúng - sai
Biêt' - nên yêu ai - và biêt' phaỉ ghét ai
Biêt' phaỉ sống và sống sao cho đúng !

Ngày ra trường - đâù ngẩng cao mơ ước
Rộn rả tiếng cướ - rộn rả niềm tin
Chưa chia tay - đã hẹn ngaỳ trở laị
Đem sức tài trả nợ núi sông
.............

Ai biêt' đâu - rằng .. cũng từ đây
Đã mãi mãi...xa ngôi trường nầy
Phong trần cat' bụi đà vú lâp'
Dầu nghiă tình xưa vẫn đong đâỳ

Bây giờ trở laị nơi trường xưa
Cảnh cũ không c̣n - ngướ cũ đã xa
Dẫm lên cỏ . .mà nghe ḷng lạnh giá
Nghe tiếng thở dá .. của đât' nhớ .. ta

Dù " thương haỉ " có " biến vi tang điền "
Sao ḷng ta vẫn triền miên tình " hoá cổ "
Vẫn đậm nét ngôi trường xưa - hai dãy lớp
Vẫn không quên - một thuở đậm " T́nh Ngướ "

nnh
 

 

 

GD/QGNT TỪ 1975 - 2003

QGNT tại San Jose : Những Ngày Đầu

Buổi hội họp đầu tiên:
Bắt đầu khoảng năm 90 hay 91, tôi có đăng cái thông báo trên một tờ báo tiếng Việt ta.i San Jose, kêu gọi anh chị em Quốc Gia Nghĩa Tử tụ họp lại văn phòng của tôi ngay góc đường số 7 và Santa Clara. Nói là văn phòng cũng không đúng lắm, đây là một phòng nhỏ share lại với anh Nguyễn Hữu Lộc, có văn phòng bán vé du lịch ở đàng trước.

Buồi gặp gỡ vào một buổi chiều sau giờ làm việc, có các anh chị em như: anh em anh Huỳnh Khương Trung, Khương Nghĩa, Trần Quảng Nam, anh Nguyễn Ngọc Nhân, một anh khác mà giờ tôi quên tên, đặc biệt có một thầy tên là thầy Quý, thầy nói thầy đang làm cho Sở Xã Hội ở San Jose.

Anh em Nghĩa Trung và Trần Quảng Nam thì tôi có liên lạc thường xuyên từ năm 81, anh Nhân thì nói anh có học chung lớp với Trần Thanh Nhàn, Ngô chí Thiềng, Mai Đức Phú. Anh có cho tôi xem tấm thẻ căn cước quân nhân đại úy nhảy dù mà anh còn giữ được.

Buổi tụ họp này tuy nhỏ có vài người, nhưng đánh dấu một bước mở đầu cho sự tìm kiếm gặp gỡ lại của anh chị em QGNT vùng San Jose sau mười lăm năm rời xa mái trường.

TQNam - LuuNhan - AThuan - HKTrung - MDCông - DHVy

MVKhánh - LệHằng - NQuỳnh. Khoảng năm 1992


Thời gian đó, mọi liên lạc với nhau đều qua điện thoại và từ từ người này tìm thêm được người kia.

Tới năm 1992 thì lần đầu tiên có Đại Hội QGNT ở Nam Cali, tôi không nhớ là nghe tin đại hội từ ai. Tình cờ có giáo sư Phan Văn Cự gọi hỏi tôi có đi đại hội thì cho thầy đi quá giang, thầy nói thầy mới qua Mỹ qua diện HO. Không nhớ là anh chị em QGNT San Jose xuống nam Cali dự đại hội có đông không. Tại đại hội thì gặp anh Nguyễn văn Đạo, trước đó có nghe anh Huỳnh Khương Trung nói về anh Đạo rất nhiều, vì hai người có đi du học Đài Loan chung với nhau. Cũng gặp lại anh Đinh Hữu Vy là cư dân San Jose .

 


Các chị Dinh - Lương - Minh Nguyệt - Mơ - Lệ Hằng . Khoảng năm 93


Về lại San Jose qua anh Đạo, tìm thêm được chị Dinh, qua chị Dinh, ra chị Minh Nguyệt, Lệ Hằng, chị Mơ, chị em chị Đào Thị Lương và Phương cũng mới qua Cali.

Thời gian này anh chị em hay gặp gỡ tại nhà của chị Dinh, của chị Minh Nguyệt hay văn phòng của anh Đạo. Lúc đó anh chị em đã đóng niên liễm 5 đồng một tháng rồi.Tại văn phòng anh Đạo, đã có nhiều buổi trình diễn văn nghệ bỏ túi, cũng như các buổi họp cho chương trình văn nghệ Đêm Xanh, đêm văn nghệ đầu tiên cho công chúng và có bán vé.

Sau đại hội 1992, nhân dịp bác sỹ Trương Khuê Quan ghé San Jose chơi, anh Đạo có tổ chức một buổi tiệc thân mật tại nhà hàng Bo Town ở San Jose, ngoài bác sỹ Quan, còn có nhiều thầy cô vùng San Jose và anh chị em QGNT.

Các thầy cô và anh chị em QGNT tại San Jose năm 1992

Qua tới năm 1993 anh chị em bàn bạc về việc tổ chức chuyến đi chung xuống nam Cali tham dự đại hội lần thứ hai. Trong chuyến đi bằng xe van này có cô Thu Vân dạy nhạc, Trần Quảng Nam, chi. em Lương, Phương....và ai nữa tôi không nhớ.



Buổi văn nghê Đêm Xanh
Sau đại hội lại có chương trình Văn Nghệ Đêm Xanh mà San Jose hứa sẽ tổ chức vào dịp Lể Labor’s Day cũng vào năm 1993.

Đây là dịp để anh chị em QGNT San Jose gặp gỡ và bàn thảo cho chương trình sao cho được thành công, tôi còn nhớ là tại nhà tôi, anh em bàn thảo quá hăng hái, sau hai giờ đồng hồ mà cũng chưa chọn được cái tên cho đêm văn nghệ. Thời gian này, cô Trần thị Thu Vân rất là sốt sắng, ngoài phần phụ trách các màn violin, cô còn chịu trách nhiệm nấu cà ri gà để cung cấp cho khán thính giả, thật ra là bán để gây quỹ, cũng như anh Hoàng, chồng cỏ, làm bartender bán bia rượu.

Đêm văn nghệ này may có địa điểm của nhà chị Minh Nguyệt, nhà chị có khoảng sân đàng sau rộng rãi, có thể chứa được nhiều người. Tôi và anh Huỳnh Khương Trung nhận trách nhiệm kiếm gỗ đóng cái sân khấu lộ thiên, xong đâu đó, Trần quảng Nam và một anh bạn nhạc sỹ là kỹ sư điện lo phần thiết kế đèn điện, cắm dây từ căn phòng sau nhà chị Nguyệt, cái này rất là quan trọng, vì số lượng điện cho các bóng đèn và dụng cụ ban nhạc sẽ rất lớn. Tuy đã chuẩn bị kỹ, nhưng cũng có lúc bị “ trở ngại kỹ thuật “ , đèn đóm tối thui, âm thanh bị mất....

Từ buổi trưa, đã thấy phái đoàn nam Cali kéo lên ủng hộ, có một anh mà tôi vẩn nhớ mặt và biết anh là anh của Nguyễn Hoàng, đồng môn 73. Nhớ là vì anh rất là trầm lặng, ít nói, nhưng khi có nam Cali lên bắc Cali là có anh....


Đêm văn nghệ Đêm Xanh 1993 phải nói là thành công rực rỡ, con số khán giả có đến hơn 250 người. Ban nhạc và ca sỹ phần lớn là cây nhà lá vườn, có MC là Mai Hân, một đàn chị vẫn còn làm xướng ngôn viên cho đài phát thanh. Đặc biệt có cặp ca nhạc sỹ Trần Lảng Minh và Nga Mi từ vùng DC qua. Cặp nghệ sỹ này đêm hôm đó trình diển nhiều bài nhưng hay nhất là bài Hồ Trường, vừa ngâm thơ vừa hát.

Đêm văn nghệ hay quá, ai cũng muốn kéo dài ra thêm, lần đầu QGNT ra quân mà khán giả ủng hộ nồng nhiệt như vậy. Quá khuya, khán giả về hết, anh em ta còn lưu lại ở cái basement nhà Minh Nguyệt đàn ca văn nghệ một lúc nữa mới tan hàng.

Tiếc quá, không có ai chụp hình trong buồ̉i văn nghệ Đêm Xanh này, chỉ có cặp vợ chồng anh chị nghệ sỹ ở Oakland tôi quên tên nhận quay video. Nhưng sau đó thì không nghe nói tới và cũng không thấy ai hỏi về cuốn video này.

Từ sau buổi văn nghệ Đêm Xanh thì anh chị em QGNT San Jose có khuynh hướng gặp gỡ nhau nhiều hơn, thường là những buổi tụ họp tại nhà một anh chị nào đó.

Anh Hùng - HKTrung - Thầy Nghệ - Chị Thu Tâm - Chị Kim Nguyệt

Đặc San QGNT Mẹ Việt nam 1995
Qua tới năm 1995 thì San Jose nhận nhiệm vụ lo cho tờ đặc san, anh em lại gọi qua gọi lại, đốc thúc bà con viết bài, gởi bài, thơ qua thơ lại. Nên nhớ thời gian 1995 computer và internet chưa thông dụng, nên việc gởi bài, sửa bài rất là khó khăn và chậm chạp.

Chủ đề cho tờ đặc san này là Mẹ Việt Nam, Bắc Cali hoàn thành phần trình bày cho tờ đặc san 95 và giao lại cho nam Cali mang đi in.

Sau khi in xong, anh chị em nam Cali cũng tổ chức một buổi ra mắt tờ đặc san khá long trọng, anh chi. em Bắc Cali cũng kéo xuống tham dự khá đông.



Những Buổi Picnic Liên Trường:
Sau năm 1995 thì các sinh hoạt QGNT tại bắc Cali vơi dần đi, những người đã gặp thì đã gặp rồi, lâu lâu nghe nói có một anh chị QGNT mới nào xuất hiện thì lại hỏi thăm đâu đâu, xin số phone.

Cho tới khoảng năm 2000 thì lúc đó chị Minh Nguyệt đang tham dự các hoạt động liên trường vùng bắc Cali, tổ chức này hàng năm có tổ chức một buổi picnic vào mùa hè, chị rủ anh Trung ráng liên lạc anh chị em QGNT tham gia cho vui bằng cách kêu gọi anh chị em tham dự buổi picnic.

Nhớ là năm 2001, tôi có đi tham dự và nhớ là có tới mười mấy QGNT kể cả thầy Cự và thầy Tấn.

Picnic
Picnic Liên Trường tại San Jose 2001


Sau buổi picnic có anh Nguyễn Đức Như QGNT65 là chủ tiệm phở Bắc đường số một, anh kêu gọi anh chị em ráng ngồi lại thêm chút xíu để bàn về chuyện QGNT, xem xem mình có thể làm được cái gì.
Sau đó mấy ngày thì anh có mời một số anh chị em lại quán của anh để bàn thêm chi tiết làm sao tìm thêm được QGNT và có thể tổ chức được một đại hội ở San Jose.

Chỉ sau đó đôi tuần là biến cố 11 tháng 9 ở New York xảy ra, và câu chuyện đại hội QGNT ở San Jose đành chìm vào quên lãng.
 

  


   

TRẠI HÈ VŨNG TÀU

Đó là một buổi sáng tinh sương khi cuộc trại của buổi lễ Cựu Chiến Binh ngày hôm trước c̣n để lại nét mặt mệt mơi trên khuôn mặt mọi người, th́ một lần nữa trên con đường Vơ Tánh Gia Định (…) những chiếc ba – lô trên vai, hàng đoàn học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử đổ đến trên ngơ vào quen thuộc. Bà con nhà ta cùng nhau tham dự cuộc trại Vũng Tàu đấy các bạn.

Và bây giờ là 7 giờ 30 toàn thể anh chị em nhà ta bắt đầu tập hợp, chia đội rồi c̣n cùng mí những phụ tùng lỉnh kỉnh, mền mùng ,chiếu gối, giường tủ , đồng bào QGNT kéo nhau lên xe, khi đâu đă vào đấy th́ đoàn xe bắt đầu khởi hành, bỏ lại sau lưng mái trường quen thuộc – goodbye – tạm biệt mày nhé năm ngày sau tao d́a. Cảnh chia ly… ôi… chẳng buồn tí nào v́ ai cũng mang trong ḷng cái nao nao của chuyến du lịch. Khởi hành, đoàn xe lướt ra cổng đi đầu là chiếc xe mang cờ Hiệu Đoàn, trong sương sớm gió lộng, cờ bay phất phới như bàn tay vẫy chào Sài G̣n… Chẳng mấy chốc, thị xă Vung Tàu hiện ra dần trên quang cảnh hai bên đường, trên những rặng núi xa xa… rồi trên trạm kiểm soát, qua một tấm biển to tướng mang hàng chữ: “Bác xă vệ Vũng Tàu chào mừng du khách” để cuối cùng đoàn xe ngừng lại nơi trường Thiếu Sinh Quân. Ấy ! thế là năm ngày trại của chúng ḿnh bắt đầu từ đây. Xuống xe tập hợp lại có mục alô alô và người ta nghe được cái xách tay của anh quản tṛ Quàng Văn Quảng cất cánh bay trở lại Sài G̣n từ hồi nào (hay là bay nơi đâu đậu cũng hỏng biết) chỉ thấy là một hồi Quảng nhà ta tâm sự: “Chết rồi mày ạ, quần tắm tao để ở trỏng”. Thảm thương thay đi Vũng Tàu mà hỏng có quần tắm th́ d́a phức Sề G̣n cho nó xong.

Rồi tiếp đến sau khi bố B́nh dặn ḍ to nhỏ,  anh em kéo nhau lên pḥng khiêng nệm, ván ô để lót giường. Khi đâu đă vào đó cả th́ một nhạc khúc “Mừng cơm” do một chú lính thiếu sinh đi solo bằng cây kèn “ ăm pét” trổi lên điệu “ṭ te” nghe thật khoái lỗ nhĩ, hoá ra kèn báo hiệu giờ ăn đấy các bạn, thế rồi từ khắp những dăy lầu tiếng bao tử sôi nghe sùng sục, à không! Tiếng guốc dép, lon nĩa nghe lạnh lùng trong ấm áp, bà con ai nấy toét miệng cười, các chàng trai th́ khỏi nói chưa mời đă có mặt từ sân tập hợp bao giờ, và các bà th́ ôi thôi cũng hỏng kém ai, trên bậc thang lầu ba tức từ dăy của các cô, điệp khúc trống quân bằng guốc dép khện lên những nấc thang nghe thật lanh lảnh rợn người – mấy chị đi tập hợp đây… khiếp chưa… tiếp đến, tập hợp điểm danh xong xuôi th́ toàn thể trại sinh mới được phép lục đục kéo nhau xuống pḥng ăn Thiếu Sinh Quân. Xuống đến nơi th́ khỏi mời, cơm nóng – canh nóng – đồ ăn nóng – mà anh em cũng hỏng chịu thua, nóng mấy cũng đớp sạch bách liền. Rồi xong, buổi ăn trưa thế là tạm yên.

3 giờ trưa tập hợp và được tin đi tắm băi sau, đă nói đi Vũng Tàu là phải nói đến tắm biển, cho nên khi nghe được lệnh đi ắtm, anh em nhà ta mừng hết lớn, tập hợp đâu đó đường hoàng, bà con kéo nhau lên xe với hai chiếc xe đ̣ mà có tới hàng mấy trăm mạng nên giải pháp cuối cùng là đi làm hai chuyến, và lẽ nhiên nữ sinh phải được đi trước – thế mới ức  ! Tới băi sau, v́ ngày đầu bà con tắm cầm chừng và các cô có vẻ nặng phần nghi lễ đi dạo băi, sau khoảng ba tiếng ngăm ḿnh dưới nước, tay chân đă bắt đầu lạnh cóng, máu huyết cũng bắt đầu đông đặc th́ vừa lúc đó Quảng nhà ta xách loa đi chiêu dụ bà con tập hợp và… hay a… ảnh hỏng… hỏng có quấn sà – rong… Thế cũng hay, tập hợp lại lên xe và về trại, sau chầu tắm lại bằng nước ngọt (con cọp) th́ đầu tóc, mặt mũi tươi rói cười nói huyên thuyên,  anh chị em kéo nhau xuống” phàn xá” Thiếu Sinh Quân (pḥng cơm ấy mà) và cái ǵ chứ cơm th́ khỏi chê, bơi th́ đói nên xực cũng lẹ vô cùng, loáng một cái xong ngay, nào đĩa, chén nước  mắm đổ tùm lum… anh em nhà ta miệng c̣n nhỏ dăi , tay th́ cầm  ca nước , kéo nhau lên pḥng, một số đi tản bộ trong khuôn viên nơi khu vực học sinh QGNT đóng.

Hoàng hôn xuống, đêm họp trại đây rồi – các trại sinh tŕnh diễn ra quân , về văn nghệ có phần dở , cũng trong buổi tối này, cái toán thể thao mà trong đó  có các anh chàng ưa ướt quần,  biệt hiệu là Tăng ve,  cho ra quân bằng vở kịch quỷ nhập tràng ớn xương sống và cứ… gặp một con ma ướt một cái quần… gặp hai con ma ướt hai cái quần, bà con cười quá trời nhưng một hồi,  lúc con quỷ nhập tràng  ḿnh quấn đầy khăn trắng toát như xác ướp,  chợt đứng dậy ḿnh mẩy cứng đơ, nó… nhảy một cái… oái!... bà con bỏ chạy hết trơn, mấy cô hét lên ỏm tỏi (có cô hét: “bố thằng tèo ơi!”, lập tức có anh nhái lại: “má thằng tí à!”), vui th́ vui thiệt nhưng ngó mặt mấy cô th́ cô nào cũng xanh lè, chắc lúc đó ướt trăm cái quần! Stop!

10 giờ đi ngủ, khen anh Vinh một phát, làm việc th́ đúng giờ lắm đấy, nhưng nghịch th́ cũng chẳng ai bằng – gớm đại diện trưởng có khác (đùng… đùng! – Vinh ơi, hai cái mũi mày biến đâu mất rồi hỉ…!)

Và sau một hồi lục đục th́ những căn pḥng chỉ c̣n lại sự yên lặng đến rợn người,  v́ hỏng có ai dám nhúc nhích cả, eo ơi… quỷ nhập tràng nó đứng đầu giường đấy… hả? cái ǵ, một anh xanh máu mặt khi hay ra đầu giường có một con quỷ quấn… mùng trắng toát đứng cứng đờ như tượng gỗ, nhưng hay ra th́ anh quỷ cười hi hí chứ hỏng có bắt  ai cả, thế mới biết bạn bè nó chơi hú tim là thế!... Đồ Quỷ…!

Ngày đường mệt nhọc trôi qua, theo giấc ngủ hăi hùng đầy giấc mộng “ướt quần tăng ve”… th́ c̣i đánh thức đă kên ren rét bên dưới, bà con lục đục thức dậy tập thể dục,  rồi về pḥng đánh bóng bộ răng ,để hôm nay ra biển nhe răng cùng cá mập (cho nó sợ). Lỉnh kỉnh một hồi điểm tâm xong xuôi, anh chị em được kéo nhau ra băi biển nữa, hôm nay băi treo cờ đỏ và cuộc tắm biển êm đềm trôi qua, đến nổi không c̣n ǵ để nói,  ráo trọi rồi ! thôi lên xe d́a, d́a và đi ăn cơm… Ôi, hai tiếng dịu hiền, ăn thi ăn sợ ǵ… từ từ dậy mày, Long nhà ta bảo: ăn ǵ ăn như trâu, cái thằng Thưởng đó hông chờ cụ Đan nhà ta mí ăn ǵ mà miệng nhai hỏng thấy lưỡi mày đâu hết…cái đồ con nhà… nhà nào cũng hỏng biết nữa… thế là cười xoà, người một câu rồi bữa cơm cũng tàn theo những cái miệng cùng nhai lách chách… xong xuôi lại kéo nhau lên pḥng, ngang qua bồn nước… anh chàng Tính noa  cầm lon vô múc nước, theo truyền thống tứ đại tam tông nhà nó ,cho nên thấy một đám nữ nhi đang tận dụng cảnh chen lấn để múc nước, (y hệt mua xăng),  có một cô đứng lẻ loi bên ngoài ,nó bèn tỉ tê lơn lớn: “con nai vàng ngơ ngác…”, Long “Tồng khờ” nối tiếp liền: “đạp trên xác T́nh noa”… mấy chị cười ầm cả lên, thế là cu cậu quê quá gượng gạo bỏ đi một nước (Ui! Xệ thật).

2 giờ trưa, tiếp tục chương tŕnh… bà con được thông báo đi văn cảnh Thích Ca Phật Đài – y phục chỉnh tề - đoàn trại sinh QGNT lũ lượt kéo lên những nếp thang cao nghệu, mỏi cả chân một vài cô dừng lại mua đồ kỷ niệm hai bên  lối lên chùa, c̣n phần đông anh em đều lũ lượt leo núi cả, leo ṿng vo một hồi th́ cũng hết đường, đứng trên chót vót nh́n xuống khung cảnh thật bao la hùng vĩ… biển cả,  chân trời… mây núi… thật đúng là trời cao cảnh rộng ,cho con người cái cảm tưởng độ lượng bao dung hơn, ai nấy đều tấm tắc khen ngợi, rồi lại xuống, bận xuống này có lẽ sợ bị bỏ quên,  bà con cùng thi nhau mà xuống cho lẹ lẹ nhưng rồi cũng xong, lên xe tập hợp và thế nào hông biết lại có mấy anh vắng mặt – chắc muốn tu luôn trên núi – một lúc… té ra mấy anh hỏng biết đường đi xuống…

Kéo nhau ra băi trước dăm phút, anh chị em cuốc bộ  một ṿng nơi băi t́m dê – Tầm dương – mua đồ kỷ niệm và vài anh thưởng thức trái bắp nướng của bà mẹ Việt Nam bên lề đường – bắp nướng bôi thêm mỡ hành… Ôi cha ngứa nứơu răng quá! Có mấy cô đi dạo nơi băi, cát ướt ghi rơ những vết chân ,chạy dài trên thành phố hang hóc của lũ dă tràng, thế là mấy anh vừa đi vừa gặm bắp nướng vừa hát: “dấu giày in trên cát , non nước nào nỡ cuốn trôi đi…”, một cô quay lại, tưởng ǵ – hoá ra: “cho xin trái bắp đi…”  ?  hết nói  !!!

Lên xe về, lại mục ẩm thực xong xuôi ,đến đêm họp trại, đêm nay cũng vui nhưng chẳng có chi đặc biệt – rồi hỏng đặc biệt th́ đi ngủ… ngủ đă đời lại thức (hỏng lẽ ngủ luôn) thể dục, ăn sáng, điểm danh đi tắm, hỏng biết ông bà dung rủi thế nào mà ngày trại thứ ba này lại nhằm ngay phong phóc thứ sáu ngày mười ba mới chết, thế là bà con bàn tán xôn xao cả lên và một vài anh: - eo ôi, thế th́ hôm nay chắc có đứa chết đây. A… nó… chính thị thằng “Hương hỏi Hưởng” hèn ǵ năy giờ tao thấy nó bí xị như cái bánh bao xẹp, ngồi đâu th́ như chết đó, ăn th́ nhai nhai, rồi nuốt mà hỏng chịu ụa ra nhai lại (giống ḅ mà), vậy th́ đích thị rồi… anh em ơi, bữa nay thằng Hưởng tới số nên nó có giác quan thứ 35 đó mấy bà con… h́ h́… à ạ đúng nó rồi! Thế là cả một lũ con trai trong ánh năng ban mai vừa ló, nơi bao tử vừa lót kỹ một khúc bánh ḿ mí ba miếng chả , rồi cùng đem hết giọng kèn tiếng uyển ra mà gào, họng anh nào anh nấy to bằng cái thúng: “Ôi!...Hưởng con ôi là con ôi… con chết đi bỏ bố lại cho ai, biết lấy ai ẵm bồng, ai chăm sóc hỡi con ơi là con ơi… ới…ới…ới” cả bọn cười như vỡ chợ trong khi anh chàng Hưởng cũng hỏng chịu kém cũng… nhe đủ 32 cái răng theo nha thức:

  nanh    vuốt (sún mất hai cái răng cửa)

Vui vẻ cả làng rồi cùng nhau lục tục kéo lên xe, ra tới băi – thứ sáu ngày mười ba …Mặc kệ! Biển lặng gió yên thế này mà bảo xui xẻo là nàm siêu ! ?, hỏng cần kiêng cữ, bà con cũng tắm như b́nh thường và lâu lâu hễ thấy thằng HƯởng đâu mất là lại gào, báo hại anh Hưởng nhà ta hôm đó được chiếu cố kỹ đến nổi đi đâu cũng có đứa coi chừng… Buổi chiều tắm ở băi Ô Quắn – khung cảnh nơi đây thật thơ mộng, đứng từ ḥn Vọng nguyệt nằm bên trên mà nh́n ra biển th́ anh em, ai cũng muốn ở lại đây luôn. Con đường xuống băi thật nhiều bậc thang và nơi tắm lại có đá ngầm, anh em vẫn bảo nhau: c̣n thứ sáu ngày mười ba mày ạ, vả lại buổi chiều là hiện thân của sự chết chốc đấy – anh em lại réo – Ôi! Hưởng ơi là Hường ơi! Con nhà Hưởng kỳ này bị khủng hoảng trầm trọng, nghe bảo thế nó tưởng thiệt khóc sưng cả mắt, ai dỗ cũng chẳng nín, báo hại anh em mỗi đứa hùn một đồng mua kẹo cho nó ăn – bà con than lỗ quá trời – mà cái thằng được kẹo là cười tít cả mắt (thảo nào sún hết hai răng!)

4 giờ 30 trở về Thiếu Sinh Quân ăn cơm, thể thức cũ lại tái diễn nhưng lúc sắp hàng vào pḥng ăn, lũ con trai hôm nay lại có tṛ mới, cứ anh nọ gác tay lên hai vai anh kia, vừa đi vừa rống: “đói quá! Đói quá!” lời kêu vang được hoà tấu theo lon nĩa và sự run giọng tuyệt mỹ đến ghê rợn , khiến cô Hiếu phải cười xoà và bảo: “gớm, mấy am cứ làm như là tù nhân Do Thái đang trên đường vào ḷ sát sinh của Hitle vậy”. Cả bọn cười ầm… tới pḥng và đớp…

Đêm đến, hôm nay anh em thưởng thức thêm món chè đậu xanh và sau khi đi ṿng ṿng một hồi là tới giờ ngủ… giấc ngủ trôi theo những dư âm vui đùa c̣n lắng đọng ngày hôm trước… chẳng mấy chốc ngày trại thứ tư bắt đầu để báo hiệu ngày cuối cùng cho sáng hôm sau th́ khăn chiếu rời khỏi Thiếu Sinh Quân rồi – Hôm nay được đi tắm tiếp tục nhưng điểm danh xong xuôi th́ hônng theo thường lệ là kéo lên xe… bà con được chứng kiến một phiên toà đặc biệt, hoá ra có mấy chị hôm trước trốn ra đi bát phố và bị bắt gặp để hôm nay: bố B́nh kiêm chánh án, kiêm….v.v… hỏi tội: “tại sao thầy hỏng cho phép mà mấy cô tự quyền a.a.a.a…”, bên tội phạm cũng hông vừa, mấy cô cũng cải lại liền, năn nỉ… thế là Bố mủi ḷng gỡ mắt kiếng xuống, rút khăn tay ra… rồi tuyên bố tha bổng – huề cả làng -  bà con lục tục lên xe kéo nhau ra băi. Hôm nay, có lẽ tự biết ngày cuối cùng nên kéo nhau ra băi là làm liền , ôi thôi đủ tṛ, tắm, lặn, bơi đua, “kèm trẻ em bơi lội”. đi học nghề của mấy bác thuyền chài, đào lỗ bắt cồng gió, thậm chí có mấy anh mượn đâu được mấy chiếc xe đạp đạp tuốt luốt tít tè đàng xa, cho biết đó đây chớ bố  .Cũng trong buổi lễ sáng hôm nay, cái anh chàng Hưởng mà ngày hôm trước bà con trù ẻo hỏng chịu chết mà bữa nay dung ruổi thế nào mà anh ta sắp chết đuối, cất kỹ lưỡng một hơi mấy chục ngụm nước vào bụng – Anh em nhà ta vui vẻ tâm sự cùng nó: “Long Tồng Khờ”, tao tưởng nó theo ông theo bà rồi đó chớ, làm tao tiếc hùi hụi 20 đồng phúng điếu bây giờ… nó hỏng chết mừng quá đi mất – Hải: “nó uống một hơi mấy ngụm, tao thấy nó trợn trắng rơ ràng – toàn tṛng đen không à” – Nam: “đấy, cá không ăn muối cá ươn, mà tui đă bảo thế mà nó hỏng chịu nghe các bác ạ, rơ khổ, con cái thời nay hay căi cha mẹ quá”, đă hết đâu… Hùng nhà ta c̣n khuyên chàng Hưởng: “từ rày chừa nhé, đă bảo không biết lội th́ đừnng ra khơi coi ta nè, tao không biết lội tao níu chân mấy cô không hà…hồi năy bả la quá trời…”. Anh em ôm cả bụng trong khi cụ Hưởng sau một hồi định thần bèn tâm sự: “nước biển mặn quá mày ạ, chắc có 5% là muối đấy, và kết luận …phần c̣n lại… chắc là các chất bẩn…”

Buổi chiều, các trại sinh được đi văng cảnh chùa Nam Hải, một ngôi chùa đang c̣n xây cất…

Hoàng hôn xuống đêm nay là đêm lửa trại cuối cùng, kháo nhau rằng: “ đêm cuối cùng buồn lắm ai ơi”, anh chị em nhà ta hăng say quay quần bên đống lửa… bên đống lửa bập bùng, bỗng một con ḅ từ đâu chạy vào giữa ṿng khiến bà con cô bác hét ỏm tỏi cả lên, bỏ chạy tán loạn – kế đến nghe mấy cô hét khiếp quá thung thướng v́ chiến cônng từ tiếng hét của ḿnh nên… xỉu… hoá ra cô ta bị ḅ đá – (đừng đọc lộn nhe) và anh chàng y tá chích theo toa bác sĩ làm việc – tội nghiệp, thứ bảy 14 mà lại xui (T.V hỉ)

Anh chị em lại tiếp tục: “Ta hát to hát nhó nḥ nhỏ rồi ḿnh ngồi kể chuyện cho nhau ti tỉ ti ti t́ ti… và ngồi kể chuyện thật đó là câu chuyện kết thân sau cuộc lửa trại…. hỏng biết kết thân thế nào mà một lúc sau hai anh chàng Hùng và Nam ra ngồi bên lưng ḅ… nghe nó… rống!”

Cũng xong, 11 giờ kéo nhau về pḥng ngủ, hành lư đi nhé, mai này giă biệt…

6 giờ 30 sáng thức dậy, ba – lô, giày dép, khăn mùng, chiếu gối được chiếu cố gọn gàng để nằm vào bịt cho về Sài G̣n, và anh này đi kiếm cái lon, anh kia đi t́m cái áo, cũng cái anh chàng Hưởng uống nước đầy bụng hôm nay chưa hết xui nhè đâu lại mất chiếc dép thế là thảm thương chàng ta mang có một chiếc về Sài G̣n – hỏng biết có bị đánh đ̣n không nữa đây !?! – Chắc có quá…

Tiếp đến, sắp xếp xong xuôi, nam nữ trại sinh kéo nhau ra tập họp nơi sân cờ để gặm món quà sáng “khúc bánh ḿ và  ba miếng chả rưỡi” ngon đáo để - lại c̣n  nghi thức  bế mạc trại… hôm nay Bố B́nh có vẻ uy nghi hết chỗ nói – nghiêm nghị trên chiếc cầu thang h́nh móng ngựa, trong tay bố cầm… tưởng tượng, mắt bố nh́n xa xăm qua làn lệ mỏng – ư quên – qua tṛng kính cận, bố thật bệ vệ trong chiếc áo sơ mi màu “hoàng phái”, bố nói: “Bốn ngày trại đă qua, bô rất vui mừng được thấy các con tỏ t́nh đoàn kết giữa ba trường Phổ Thông – Kỹ Thuật – Tổng Hợp, mà không có một chia rẽ kỳ htị màu da, sắc tộc nào , cho nên và bởi thế… bố chúc các con lên đường d́a “mái trường xưa” b́nh an, phẻ phắng… 4 ngày trại đă qua các con đă cùng nhau dzui dzẻ trong t́nh huynh nghĩa xí muội (mặn chát)… và bây giờ chúng ta lên xe về lại ( miền bên kia thế giới!) Ś – tốp!”

Lại thứ tự trong ồn ào và sự ồn ào có phụ đề tiếng chen lấn của bà con lên xe, hỏng nhường nhịn tí nào – Rồi cũng xong đâu vào đó cả,  luyến tiếc dăm phút cho giáo sư leo lên (hỏng lẽ bỏ mấy ổng), các chú tài lúc bấy giờ mới chịu “đề mà rưa” cho xe tạ từ rời khuôn viên trường Thiếu Sinh quân trực chỉ:…Sè G̣n.

Năm ngày trại đă qua, một dấu chân kỷ niệm lại hằn sâu vào kư ức – kỷ niệm này mỗii người trong chúng ta đều góp nhặt nhưng: “Long ơi, Hưởng ơi, ghi lại nơi đây để một ngày…chúng ḿnh cùng tiếc nuối… Xưa có một thời, là chuỗi cười vô tư và ṛn ră của bọn ḿnh… các bạn nhé…”

HỒ HẢI (H3) – 12A5.

 

Các Hoạt Động Của Gia Đình Quốc Gia Nghĩa Tử

 

QGNT Bắc Cali Tham Dự "Tôi Không Quên Anh"

 

 

 

Quốc Gia Nghĩa Tử tham dự diễn hành Tết Kỷ Sửu 2009 tại Nam California

 

Ngày  Hội Kỹ Thuật Quốc Gia Nghĩa Tử  2006 tại Bắc California

 

QGNT và Chương Trình Vinh Danh Mẹ vào dịp Tết 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013

 

 

QGNT và Chương Trình Khuyến Học 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013

 

 

Đại Hội QGNT Vinh Danh Mẹ 2008

 

 

QGNT và Chương Trình Tri Ân Thầy Cô năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012

 

 

QGNT tham gia picnic Liên Trường hàng năm tại Bắc Cali

 

 

Ra mắt Ban Chấp Hành Gia Đình QGNT 2007-2011

 

 

Ra Mắt Ban Đại Diện Gia Đình QGNT Nam Cali