Các Trường Quốc Gia Nghĩa Tử,

Văn Hóa Quân Đội và Thiếu Sinh Quân

 

Trường Quốc Gia Nghĩa Tử

Từ thời Đệ Nhất Cộng ḥa Việt Nam, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đă có ư giúp đỡ các cô nhi, con cái của tử sĩ và thương phế binh trong Quân lực Việt Nam Cộng ḥa và cho đó là một trong những quốc sách với nhà nước nhận vai tṛ nuôi dạy các em cho đến tuổi 18. Năm 1962 Nha Xă hội đệ tŕnh thông qua Bộ Quốc pḥng để lập ra một tổ chức đảm nhiệm vai tṛ này, theo mẫu Office des Pupilles de la Nation của Pháp

Năm 1963 chính phủ lập cơ sở đầu tiên mang tên Viện Quốc gia Nghĩa tử[2] ở Sài G̣n. Việc xây dựng có đóng góp của các thành phần dân sự qua Ủy ban vận động xây cất Quốc gia Nghĩa tử trong đó kiến trúc sư Trương Đức Nguyên thiết kế và nhà thầu Trần Ngọc Tŕnh đảm nhận mà không lấy thù lao. Công tŕnh xây cất tiến hành đến Tháng Chín 1963 th́ khánh thành Viện Quốc gia Nghĩa tử trên đường Vơ Tánh gần Ngă tư Bảy Hiền, thuộc Tân Sơn Ḥa, tỉnh Gia Định.

Bác sĩ Trương Khuê Quan được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Giáo dục Quốc gia Nghĩa tử. Niên học đầu tiên (1963-1964) có khoảng 500 học sinh ghi danh theo học tại trường Quốc gia Nghĩa tử.

Thời gian đầu, Quốc gia Nghĩa tử áp dụng chương tŕnh giáo dục phổ thông. Đến năm 1966 xây thêm trường Kỹ thuật Quốc gia Nghĩa tử để khai giảng năm 1966-1967 với chủ ư đào tạo kỹ năng thực dụng. Sang năm 1968 th́ lại cải tiến, áp dụng chương tŕnh giáo dục tổng hợp cho một trường. Theo chương tŕnh đó th́ thay v́ chia các lớp trung học thành Đệ nhất cấp và Đệ nhị cấp th́ gom cả hai lại. Ngoài ra thay v́ chia thành bốn ban như các trường trung học khác, trường Quốc gia Nghĩa tử tổng hợp chia thành tám ban:[3]

Ban A: Khoa học (giống như bên trung học phổ thông)
Ban B: Toán
Ban C: Sinh ngữ
Ban D: Cổ ngữ
Ban E: Doanh thương tổng quát
Ban F: Công kỹ nghệ
Ban G: Kinh tế gia đ́nh
Ban H: Canh nông
Mô h́nh trường sở Quốc gia Nghĩa tử sau được trải rộng thành một hệ thống trường học tại nhiều tỉnh thành như Huế (1967), Đà Nẵng (1968), Biên Ḥa(1969), Cần Thơ (1971). Một số trường có cả cơ sở để học sinh tá túc nội trú.[4] Tổng cộng là bảy cơ sở giáo dục (5 trường theo chương tŕnh phổ thông, 1 trường kỹ thuật, 1 trường theo chương tŕnh tổng hợp) với gần 400 giáo sư và tổng số trên 10.000 học sinh từ bậc tiểu học đến trung học, trong số đó có 800 học sinh nội trú (500 nữ Sinh và 300 nam sinh). Một số được cấp học bổng đi du học sau khi tốt nghiệp trung học đệ nhị cấp.





Trường Văn Hoá Quân Đội

“Vào khoảng những năm 1968-1969, Cục Xă Hội đă khám phá tại miền Nam có 16 trường tiểu học nằm trong ṿng đai của các đơn vị quân đội VNCH bảo vệ, những học sinh đang học ở đó phần nhiều là con của quân nhân đang đồn trú ngoài tiền tuyến th́ phải chấp nhân là con nhà nghèo, không có cha ở nhà để kèm cho con cái học giỏi được.”
“V́ thế, khi chúng học xong tiểu học để chuẩn bị thi vào các trường trung học công lập th́ các em nhỏ nầy sẽ không được tuyển chọn rất nhiều, nên bắt buộc các em phải ghi danh vào những trường trung học tư thục, mà khi các em vào học những tư thục, v́ cha em lại nghèo, không đủ tiền đóng học phí. V́ thế, Cục Xă Hội Quân Lực VNCH mới xin Bộ Quốc Gia Giáo Dục nên thăng tất cả 16 trường tiểu học đó lên thành những trường Trung Học Văn Hóa Quân Đội.”
Ông Hồ Đắc Huân, một trong những nhà biên khảo “Sử Lược QLVNCH” cho biết: “Để cho các chiến sĩ hàng ngày hoạt động nơi tiền tuyến bảo vệ Quê Hương được yên tâm về việc học hành của các con em họ nơi hậu phương, Bộ Quốc Pḥng, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (CTCT), Cục Xă Hội đă tiếp tay cùng Bộ Giáo Dục để thành lập các Trường Trung Học Văn Hóa Quân Đội (VHQĐ) nhằm mục đích giúp đỡ cho con em quân nhân tại ngũ có nơi chốn học hành.
Trong đại gia đ́nh Trung Học VHQĐ, Trường Trung Học VHQĐ Sàig̣n (lớp tối) là trường được thành lập trước nhất vào năm 1958. Khởi đầu trường này chỉ là những lớp bổ túc văn hóa được Bộ Giáo Dục chấp thuận cho mở (Nghị Định số 25.108 GD/HV/TR ngày 1/10/1958), dành riêng cho quân nhân tại ngũ hiếu học để có phương tiện trau dồi thêm kiến thức và chuẩn bị tham dự các kỳ thi: Trung Học Đệ Nhất Cấp, Tú Tài I và Tú Tài II.
Với đà bành trướng của QĐVNCH lúc bấy giờ để thỏa măn nhu cầu học vấn của con em quân nhân, những lớp bổ túc văn hóa nêu trên đă được biến cải thành một Trường Trung Học VHQĐ với đầy đủ các lớp từ lớp 6 (Đệ Thất) đến lớp 12 (Đệ Nhất). Trước 1975, có 22 Trường Trung VHQĐ tại miền Nam




Trường
Thiếu Sinh Quân

Trường Thiếu sinh quân (1956-1975) là một cơ sở đào tạo nam thiếu niên trên hai phương diện: Văn hóa Phổ thông và Cơ bản Quân sự của Việt Nam Cộng ḥa. Trường được đặt trực thuộc Bộ Quốc pḥng. Tiêu chí của trường là đào tạo và huấn luyện cho lớp thiếu niên khi ra trường sẽ trở thành binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan cho Quân lực Việt Nam Cộng ḥa hoặc trở thành những kỹ sư, bác sĩ, giáo viên v.v... để phục vụ trong quân đội. Tóm lại, đây là một cơ sở giáo dục cũng giống như những cơ sở giáo dục khác của Việt Nam Cộng ḥa nhưng có phần huấn luyện quân sự nên được gọi là Học đường Quân sự.

Vào thời Pháp thuộc, triều đại Vua Thành Thái. Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer kư nghị định ngày 21 tháng 11 năm 1899, cho hai đơn vị Quân đội Bảo hộ Pháp tại Hà Nội và Sài G̣n được thành lập 2 Toán Thiếu sinh quân.[2] Nhân số Thiếu sinh quân vào thời kỳ này, mỗi Toán chỉ có 10 người. Từ đó tại những nơi khác các Toán Thiếu sinh quân lần lượt được thành lập. Nhân số Thiếu sinh quân được thu nhận cũng được tăng lên từ 10 đến 20 rồi 50 cho mỗi Toán. Khi nhân số của từng nơi tăng lên thành số nhiều, các Toán được đổi thành Trường.

Ở Miền Bắc có các trường Thiếu sinh quân: Móng Cái, Núi Đèo, Đáp Cầu. Phủ Lạng Thương, Việt Tŕ, Hà Nội. Miền Trung có trường Thiếu sinh quân Huế (Ban đầu tọa lạc ở thành Mang Cá, sau dời vào Thành nội Huế). Miền Nam có các trường Thiếu sinh quân Đông Dương (tại Vũng Tàu), Thủ Dầu Một, Đa Kao (tại Gia Định), Thành Ô Ma[3] (Sài G̣n), Đà Lạt, Ban Mê Thuột và Mỹ Tho. Về phương pháp huấn luyện và điều hành của các Trường, đều rập theo khuôn mẫu của các Trường Thiếu sinh quân của Quân đội Pháp tại nước Pháp.

Vào thời điểm đầu thập niên 1950 trên toàn Việt Nam có 7 trường TSQ phân phối như sau:

- Trường TSQ Đệ nhất Quân khu ở Gia Định
- Trường TSQ Đệ nhị Quân khu ở Huế
- Trường TSQ Đệ tam Quân khu ở Hà Nội
- Trường TSQ Đệ tứ Quân khu ở Ban Mê Thuột
- Trường TSQ Móng Cái (Hải Ninh) dành cho sắc dân Nùng
- Trường TSQ Đà Lạt của Quân đội Pháp
- Trường TSQ Đông Dương của Quân đội Pháp ở Cap Saint Jacques (Vũng tàu)
Năm 1954, sau Hiệp định Geneve. Các trường Thiếu sinh quân miền Bắc được di chuyển vào Nam sáp nhập vào trường Thiếu sinh quân Mỹ Tho. Tuy nhiên, giai đoạn này rất căng thẳng v́ Phái bộ Viện trợ Hoa Kỳ không có ngân khoản dự trù dành cho các trường Thiếu sinh quân, nên đă đề nghị với Bộ Quốc pḥng Việt Nam Cộng ḥa cho giải tán tất cả sáu trường ở miền Nam, chỉ giữ lại trường Đông Dương ở Vũng Tàu. Nhưng vào giờ phút chót, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và Trung tướng Lê Văn Tỵ quyết định duy tŕ các trường Thiếu sinh quân này.

Cuối tháng 5 năm 1956, Tổng thống Diệm chỉ thị cho tướng Lê Văn Tỵ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, tập trung sáu trường hiện hữu (gồm 1.350 học viên) và di chuyển tất cả về Vũng Tàu nhập vào trường Đông Dương. Ngày 1 tháng 6 năm 1956, Thiếu sinh quân hợp nhất, đồng thời chính thức với danh xưng "Trường Thiếu sinh quân Việt Nam" và trở thành một Quân trường có tầm vóc Quốc gia. Ngân khoản đài thọ cho trường Thiếu sinh quân được trích ra từ ngân khoản của quân đội.