Tháng tư về ...
Tháng tư về nắng chói miên man
gió cuốn xóay xoay những ngỡ ngàng
chung góp lời ca theo kư ức
héo môi cười dấu những nghi nan
Tháng tư về lại chít khăn tang
"cải tạo" kéo lê những nghiệt oan
biển cả thành mồ- dân vượt biển
tự do! ḍng nước cuốn thân tan...
Tháng tư về chợt nhói niềm đau
"di tản" trong tang tóc u sầu
mấy chục năm rồi chưa hết khổ!
"Người" không khắc khoải những đêm thâu?
"Người" bảo: "Có chi! chỉ viễn vông!
hăy cứ cười vui, bỏ ước mong
chuyện đổi thay cờ- mau đón nhận
những ưu phiền hăy bỏ cho xong!"*
"Không có chi!"(??)... nhưng tôi vẫn chờ!
vẫn nghe trăn trở, viết lời thơ
mong ngày non nước xưa thấy lại
dân chủ, t́nh ngụi ...chẳng phải mơ
Tháng tư...tôi biết, cũng trôi qua
nhưng tiếng khóc than chửa nhạt nḥa
mơ ước năm nào tim vẫn giữ
buổi chào cờ tiếng hát bay xa....
Xin gửi thiết tha tiếng nguyện cầu
trong, ngoài...xin hăy bước cùng nhau
cho nhân quyền, ấm no, dân chủ
trở lại quê xưa ... dứt hận sầu
Minh Phượng
Tháng tư...
Ngày đầu tháng tư là ngày của cá
Cứ tưởng mọi điều không phải sự thât
Nhưng mọi chuyện vẫn cứ xảy ra
Nghe tin anh đă mất trong cơn bệnh chiều qua
Và nỗi buồn 30 năm ám ảnh măi quanh ta...
Tháng tư là đầu mùa hạ
Cánh phượng đă bắt đầu đỏ thắm
Nhớ trường xưa và bạn cũ
Nhớ ánh mắt buổi chia tay muà hạ
Bàn tay nắm chăt chút ưu tư thuở đó
Tháng tư cơn mưa đầu muà xối xả
Con đường xưa nuớc ngập bàn chân
Cơn lũ theo về cuốn theo thân phận
Rồi cánh buồm no gió cuốn theo em
Và biết đâu chẳng bao giờ gặp lại
Tháng tư anh về hong bếp lửa
Mong áo em khô v́ ướt sũng chiều mưa
Con đường đó em đi ngày trước
Vết nứt bàn chân anh buớc ngậm ngùi
V́ trong em có nỗi buồn vô tận
Tháng tư nhớ ngày về quê em
Trái ngọt đầu mùa cho anh mát lịm
Ḍng suối mát len vào trong ánh mắt
Thắp sáng lên qủa tinh cầu rực rỡ
Đền ơn em những tháng ngày qua
Tháng tư ngày sao dài măi thế
Buổi tinh mơ đă sáng rực bầu trời
Và chiều đến c̣n chút nắng lê thê
Anh gần em chờ cho trời mau tối
Để chúng ḿnh đốt lửa cháy t́nh yêu
Tháng tư chia số phận
của ḿnh
Em ra đi mà không lời từ biệt
Biển mênh mông sóng gió đời em
Vận nước nổi trôi tháng ngày c̣n lại
Tháng tư buồn da diết măi phải không em...
NVH.Q72
CHUYỆN
THÁNG TƯ
(Kính dâng tặng các mẹ Q)
"Anh đã thấy mùa xuân trong lòng chị
Tôi đã gặp mùa xuân trong mắt em
Chị hân hoan say đêm dài mộng mị
Em cười vui trong xác pháo bên thềm..."
...
Hai thằng em Q cùng cafe tối với vợ chồng chị, tại nhà
hàng "Bốn mùa" nằm sát mép mặt nước biển Nha Trang, vào
một ngày tháng tư.
Bất giác, chị nhớ lại quãng
thời gian đã qua và kể:
Mẹ chị, ngày goá bụa, chưa tròn 40. Một nách...năm đứa con
thơ đang tuổi ăn, tuổi lớn. Mẹ như một...dũng sĩ thực sự!
chiến đấu cật lực với cuộc mưu sinh, để
mong đàn con đủ cái ăn, cái mặc,
cái...học hành. Mẹ cứ nơm nớp lo âu, ngày mai...ngày mai
nữa, tát biển đông có mình mẹ...mẹ biết làm sao?!
Rồi tháng tư ấy đến, như cuồng
phong, mọi hy vọng, mọi nguồn cưu mang...phụt tắt!
Đêm về, đàn con nằm dàn ngang,
mẹ giăng mùng xong, chui vào ngồi nhìn ngắm lũ con đang say
giấc và...KHÓC TỚI SÁNG!
Lăng Tùng
Giọt buồn tháng tư
Năm mươi năm có về thăm trường cũ
C̣n bao nhiêu hơi hướm của ngày xưa!?
Sừng sững lầu cao trong nắng ban trưa
Nay đă khác ... cờ đâu trong gió lộng!!!
Tên đă đổi, chốn nào c̣n trong mộng!
Để giật ḿnh nghe thoảng tiếng Thầy Cô
Vẳng tiếng bạn bè sân bóng cười đùa
Trong góc nhỏ ai đánh chuyền tóc thả
Sao cứ nhắc là trong ḷng thấy lạ
Chợt bồi hồi như c̣n tuổi thiếu niên ...
Giờ học quay ngang, ngó ngửa, chẳng yên
Khúc khích th́ thầm những tṛ "rắn mắt"
Mấy mươi năm, tưởng quên mà vẫn chặt
Vẫn đâu đây trong kư ức mơ hồ ...
Một tháng tư buồn, ḍng lệ cũng khô
Chỉ se thắt con tim ḷng thương nhớ!
***
Vâng, vẫn tưởng như ḿnh không c̣n nợ ...
Ḷng chùng buồn nh́n bia mộ không tên ...
Những anh hùng ngang dọc khắp bốn miền
Đem thân xác đắp bồi cho đất nước
Họ nằm đó ḷng không c̣n thua được
Cả chức danh, công trạng cũng phôi pha
Tử sĩ một đời đền đáp Quốc Gia
Trên bia đá, chỉ ngày sinh, lúc chết ...!
Nhưng người ạ, chết không là đă hết
Tên các anh c̣n lưu măi sử xanh ...
Mong ngày mai khi đất nước an lành
Đài Nghĩa Dũng ghi tṛn tên chiến sĩ
TN
04/17/13
Nghĩa dũng đài
Vươn lên trên bậc thang mới đắp
Nghĩa dũng đài sừng sững trời cao
Trăm cánh sắt chờ đợi năm nào
Ôm uất nghẹn tháng tư lửa máu
Qua thời gian ố màu tang tóc
Vẫn kiên gan chờ đợi cháu con
Trở về thăm dù nước không c̣n
Thắp nhang trước anh linh tử sĩ
Nắng tháng tư rơi giọt trên đường
Thương tiếc người chiến sĩ "Tiếc thương"
Cùng mộ phần "vô danh" cỏ úa
Nhắc một thời ngang dọc chiến trường
Levanthe NTQĐBH 4/2013
Mời Các Anh Chị xem một số h́nh các bạn Q75
Viếng Nghĩa Trang Quân Đội ngày Tiết Thanh Minh 04-04-2013
QGNT 75 Viếng Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
Tháng tư
vẫn nhớ ...!
Đă đến mùa mưa rồi đấy ư
Sài G̣n ướt đẫm lệ trang thư
Của người ly xứ, người nhung nhớ
Gió biển thầm th́ chuyện tháng tư ...
Cứ bảo rằng ... quên ... có được không!?
Người đi, kẻ ở, măi chờ mong
Rùng hoang vùi lấp bao xương trắng
Đáy biển thay mồ ai biết không ...!?
Tháng tư, trang sử một màu tang!
Ai viết cho vơi những bẽ bàng
Một phút cúi đầu dâng tưởng niệm
Đôi giây trầm mặc với tâm nhang ...
Nhắc nhau hai chữ viết "đồng bào"
Chua xót trong ḷng biết nói sao!!!
Độc Lập, Tự Do, và Hạnh Phúc ...
Ḥa B́nh, Dân Chủ, thế hay sao???!!!
Người ở đâu năm ấy tháng tư?
Trời Nam vần vũ áng mây mù!
Máu rơi khắp nẻo đường "di tản"
Quên có được sao (?) dễ thế ư!!!???
Tháng tư nào quốc sử sang trang
Ngơ ngẩn ḷng dân những ngỡ ngàng
Người có "vô t́nh" mà chúc tụng ...
Cho tôi gửi góp lệ đôi hàng ...
TN
04/12/13
Tháng tư
Tháng tư ..ḷng lại chít
khăn tang
hoài băo, ước mơ ...nghe xốn xang
lệ đổ trên tàu trong gió lạnh
buốt đau khi tiễn biệt cờ vàng
Băm tám năm qua những đổi dời
sóng nào đưa đẩy mảnh bèo trôi
tự do- no ấm - dân là chính (?)
nỗi xót xa làm mặn đắng môi!
Giỗ tổ Hùng Vương tiếng trống vang
chào cờ nghi lễ những lớp lang
hồn nước xưa vàng bay kư ức...
anh linh nay vất vưởng non ngàn...
Những đời phiêu bạt đến nơi đâu
tha thiết trong đêm tiếng nguyện cầu
sông núi ru hời chim quốc khóc
Kinh Kha hề giấc mộng nông sâu...
Hoàng-Trường Sa tiếng vọng trùng dương
thôi thúc tin yêu buổi xuống đường
rồi ngục tù cùm gông tội nghiệt
xiết người mở lối cho quê huơng...
T́m hiểu cội nguồn tự chốn xa
bao năm chứng cứ đă phai nḥa
trong đêm sâu vẫn c̣n hy vọng
thắp lại đuốc tin khắp quê nhà
Cầu mong ngày ngọn lửa Quang Trung
tỏa rạng thêm trang sử hào hùng
già trẻ gái trai cùng đứng dậy
giữ ǵn sông núi Việt: ḷng chung....
Minh Phượng
Tôi vẫn mơ ...
Tôi vẫn mơ quê ḿnh thay đổi mới
Chỉ mong rằng không súng đạn gươm
đao
Quê hương ơi đă bao cuộc tiêu hao
Ta có phải vẫn chung gịng Hồng Lạc?
Đă quá đủ những điêu tàn xao xác
Máu xương chồng cảnh xáo thịt nồi da
Dù Bắc dù Nam chẳng phải chung nhà?
Cùng con cháu vua Hùng thời dựng
nước?
Tôi vẫn biết bao đau thương sau trước
Con mất cha và vợ phải xa chồng
Hết binh đao bao kẻ phải lưu vong
Tàn cuộc chiến vẫn c̣n bao tang tóc
Nhưng cứ gẫm trong cuộc đời ô trọc
Nh́n mà thương sao đất tổ quê cha
Bao điêu tàn, khói lửa với can qua
Cũng v́ bởi ḷng tham lam kẻ mạnh!
Tôi măi nhớ ngày mẹ già từ biệt
Cúi ḿnh hôn đất tổ để giă từ
Trời Sài G̣n lúc ấy cũng tháng tư
Mẹ tôi lại thêm một lần bỏ xứ!
Ba mươi tháng tư đă đi vào sử Việt
Buồn hay vui, chỉ ḷng ta hay biết!
Tôi vẫn mong và vẫn mong tha thiết
Những bàn tay xây dựng lại sơn hà
TN
Lại
một ngày 30-4 đen đau thương sắp đến .
Bài
thơ này chỉ là một chút gợi nhớ cho những tâm hồn c̣òn mang nặng nỗi đau, nỗi
đau của mỗi lần hè đến với bao kỷ niệm xót xa...Th. T. xin thân tặng tất cả các
chị em bạn gái đă từng một thời đi thăm nuôi cha, chồng trong trại " cải tạo "
sau ngày 30-4 .
HẠ BUỒN
Hạ lại về tháng Sáu,
Cơn mưa buồn giăng giăng...
Từng ngày qua khốn khó,
Anh vẫn hoài xa xăm...!
Lần ra đi, anh bảo :
Chỉ mươi ngày thôi, em
Em mòn hơi vẫn đợi,
Mong : chân cứng, đá mềm ...
Anh đang nằm : "Bệnh xá " ?
Tin giữ đến bất ngờ,
Em sững sờ, tượng đá
Mắt trợn trừng, hư vô !
Em vội vàng gom góp,
Cả sức tàn, cô đơn.
Con thơ tay bồng, dắt,
Đường thăm càng dài hơn...
Anh hình như chiếc bóng,
Thân, dáng gầy xác xơ ...
Vẹo xiêu, chân không vững,
Em nghẹn ngào ngẩn ngơ!!!
Trời mưa Ngâu tháng Bảy
Sao nhập nḥa mắt em ?
Người ngày xưa đâu thấy ,
Để em măi đi tìm ??
Hai mươi phút hạn kỳ,
Sau bao ngày phân ly.
Bàn tay chưa kịp ấm,
Người ở lại, người đi !.
Anh thì thào cúi mặt :
" Em hãy về chăm con.
Đừng mong , và đừng đợi,
Anh, xóa lời sắt son ! "
Anh biết lời nói kia,
Làm đau lòng em không ?
Đời dù bao gian khó,
Em đâu nàn thủy chung !...
Anh mắt buồn, lầm lũi,
Em cúi đầu lệ rơi...
Dù vật dời , sao đổi,
Em vẫn chờ, anh ơi...
* * *
Giờ đây trên xứ người,
Thêm một lần, chia ly...
Lần sau cùng, vĩnh viễn,
Em tiễn một người đi ...!!!
Th. T
Đêm nguyệt tàn........
Em còn ngang nhà anh
Nhưng nhà đâu còn nữa
Từ độ ánh trăng thanh
Không còn soi đôi lưá ..
Tháng tư buồn khói lửa
Nhà anh bị chiếm rồi
Rừng xanh anh lầm lũi
Cơi tù ngời âm u ..
Một hai ,ba rồi thu
Trên môi bặt tiếng cuời
Lòng hổ thuơng rạn nứt
Em vội áo hồng tuơi ..
Em còn chiều lễ qua
Đuờng nhà anh chân vội
Khấn giùm thân tù tội ..
Lời quê cầu xót xa
Em còn nghe niềm vuơng
Trên đuờng em đi tới
Xin hô. anh no'i với
Phố giờ trả ngàn huơng .
...
Tháng tư đêm nguyệt tàn
Căm thù nào phôi phai
Ba muơi năm hơn lẻ
Vuờn trầm lên tha ma
Ba mươi năm mù suơng
Nhưng lòng sao vẫn băo
Vẫn nghe từng xác đổ
Đồng đội máu tiếc vuơng
Em còn qua con đuờng
Nói giùm anh quê huơng
Còn bao trong tâm tuởng
Một đời những tiếc thuơng ..
Em còn vang câu ca ..?
Hay chiều hoà mưa thở
Hát giùm anh với với
Tiếng lòng ..bao xo't xa ...
Ba ngày nữa ba muơi
Cỗ bầy những đám người
Việt Nam mừng khói lửa
Cô liêu anh cơi trời
Đêm nay nghe vời vợi
Bao mùa lá rụng rơi
Bao giờ mùa xuân tới
Quê huơng hé môi cuời ...???
.....
..ks...................... ....
|
|
Về Nghĩa Trang Xưa
Đài xưa hoang phế lối xanh rêu
Đỉnh thiêng vùi lấp măi nơi nào?
Tiếng quân rầm rập đêm canh thức
Mơ hồ như sống giữa chiêm bao
Kiếm găy ngang trời mộng dở dang
Trời giăng mây xám khói binh tàn
Hờn chinh chiến cũ buồn trong mắt
Đồi cao tiếng gió vẫn than van
Xưa kia Nhiếp Chính người băm mặt
"Giữa chợ ai người khóc nhận thây" *
Vun nấm mồ xưa tṛn mạch đất
Ḷng con gom góp măi không đầy
Khói vàng bay, hương khói vàng bay
Những hàng mộ chí đă lung lay
Những mồ xiêu dạt hờn oan khuất
Sỏi đá chia ĺa hận cỏ cây
Một lần băi biển hoá nương dâu
Buông gươm bỏ súng hận cơ cầu
Máu hồng loang thấm sâu ḷng đất
Cho cây xanh lá những ngày sau
* Thơ Nguyễn Bính_ Hành Phương Nam
"Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt
Giữa chợ ai người khóc nhận thây"
Thầy trò QGNT viếng Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa khoảng năm
1970
Tôi viếng Nghĩa Trang Quốc Gia lần đầu cũng là lần cuối vào mùa hè
1970.
Bố tôi mất năm 1963, chôn ở Nghĩa Trang Hạnh Thông Tây, nơi Thầy
Trần Bích Lan gọi là Quân Khu 5 trong truyện viết về Trung Đôi Chung
Sự của ông. Suốt 7 năm , tôi hằng tuần ngồi sáu chuyến xe lam lên
thăm Bố cho mỗi lượt đi về. Năm học đệ Tam, Phạm hữu Thành có chiếc
Vélo Solex, hai đứa thường ghé ngang mỗi lần tôi xuống nhà Thành ở
Xóm Mới. Bố Thành cũng nằm ở đấy. Chúng tôi thường đến thăm sau khi
tan học, đi quanh những hàng mộ mỗi ngày một dày hơn, ngồi nghỉ bên
cạnh những ngôi mộ được xây cất khang trang, có giàn hoa giấy che
nắng và những cụm uyên ương lẻ bạn màu tím sẫm nằm lẻ loi một cách
kiên cường trong cái nắng nóng mùa hè. Có khi hai đứa đứng ngẩn
người trước pho tượng Trung Liệt, nh́n ḍng chữ Tổ Quốc Ghi Ơn bắt
đầu phai mờ mà đầu óc trống không, không thể h́nh dung được những
điều sâu thẳm nằm giữa những hàng chữ được khắc ghi như một định
mệnh cho những người trai sinh ra trong khoảng thập niên 20 đến thập
niên 50. Có khi hai đứa vào thăm những người lính trở về từ mặt trận
trong chiếc quan tài buồn phủ quốc kỳ, trong ḷng nhớ lại những
tháng ngày đầu quấn khăn tang, đi theo chiếc xe màu đen và trung đội
mở đường chạy qua con đường sỏi đá bụi mù ngoài kia,rồi ngừng lại
nơi đó, nơi ḷng đất mở ra và khép lại, nơi thâm t́nh bị hoàn toàn
cách chia hai ngả, nơi ấm nồng trở nên lạnh lẽo, nơi những ḍng nước
mắt tuôn trào rất tự nhiên dù đă dặn ḷng không thể khóc.
Không nhớ rằng ai đă khởi xướng chuyến đi thăm ngày ấy, chỉ c̣n nhớ
khá đông người. Bên nam tôi chỉ c̣n nhớ có Đỗ văn Thái, bên nữ có
Nguyễn thị Chai, Nguyễn thị Nhuận, Phạm thị Thôn, có cả chàng Tổng
thư kư BĐD Petrus Kư niên học ấy. Về phần giáo sư tôi chỉ c̣n nhớ
Thầy Nguyễn Huy Bảo. Chắc là c̣n nhiều người khác, nhưng giờ đành
chịu, may ra Đỗ văn Thái c̣n giữ được những ảnh chụp ngày xưa, v́
sau đó Thái có cho tôi hai bức có h́nh tôi, tiếc rằng tôi đă bỏ lại
Việt Nam sau chuyến đi vội vă.
Chúng tôi rời trường khoảng 9 ǵờ sáng, đến nghĩa trang khoảng trước
sau 10 giờ. Mục tiêu chính là Đền Tử Sĩ, v́ ở đấy vừa mát, có mái
che, vừa ở trên cao nh́n bao quát thấy cả toàn khu. Mỗi người đi
theo nhóm nhỏ của ḿnh, chụp ảnh kỷ niệm, tôi lang thang một ḿnh
theo những bực cấp bước xuống dưới thấp đi về phía những dăy mộ ngay
hàng thẳng lối, quét vôi trắng toát, ḷng cảm khái nghĩ ḿnh phải
làm một điều ǵ cho xứng đáng với những người đă nằm xuống nơi đây
và nhiều nơi khác trên toàn lănh thổ bấy giờ. Bỗng dưng tôi giật
ḿnh sửng sốt, bên tai nghe một tiếng nổ thật lớn. Ngơ ngác nh́n
quanh, vừa lúc nh́n thấy chiếc nắp đỉnh bằng bê tông bật tung lên và
rơi xuống trở về chỗ cũ, một làn khói trắng c̣n thoảng bay qua rồi
tan trong gió. Tôi dụi mắt, chạy ngược lên bậc cấp hỏi thăm những
người đi cùng về sự kiện vừa xảy ra. Song không một ai nghe cũng như
thấy ǵ cả. Điều này theo đuổi tôi suốt mấy mươi năm nay, chưa có
lời giải đáp. Tôi t́m lại các h́nh ảnh cũ về Nghĩa Trang nhưng không
thấy chiếc đỉnh ấy ở đâu, không hiểu đă bị dời đi, hay là chưa từng
bao giờ hiện diện ở đó ?
Hình Ảnh Nghĩa Trang
Sau đó, chúng tôi đi qua Tân Vạng, ghé Con Gà Quay ăn trưa, rồi trở
về.
Lúc ở tù cộng sản, t́nh cờ nằm gần một anh bạn đồng nghiệp lớn tuổi
cũng vừa chuyển về cơ quan chưa được bao lâu th́ tan hàng. Trước anh
là Thiếu Tá quân đội, là một trong những tùy viên của Tướng Đỗ Cao
Trí. Anh là học tṛ của một ông thầy Tàu giỏi về Nho Y Lư Số nhà
đường Lư Thành Nguyên. Ông thầy trước có thời ở trong quân đội Quốc
Dân Đảng Trung Hoa, sau sang Việt Nam, là một người có uy tín trong
Bang Quảng Đông ở Chợ Lớn. Chuyện quanh đề tài lư số dẫn đến việc
anh cho hay là được thầy truyền hai môn xem tướng và xem phong thủy.
Thế là anh kể về sự tích phát phú của ông Lư Long Thân, những cuộc
đất quanh đồi Bác Sĩ Tín, Cầu Xa Lộ, và Nghĩa Trang Biên Ḥa. Theo
anh cho hay, chính gia đ́nh Tướng Trí đă nhờ anh mời Thầy xem cuộc
đất để chôn tướng Trí, song thầy anh không nhận lời. Sau đó trong
ngày an táng thầy anh cũng đến nhưng chỉ cho anh một vị trí khác,
nơi đó sẽ thuộc về một người có đủ điều kiện hơn (!)
Khi nh́n những h́nh ảnh đầu tiên về Nghĩa Trang Quân Đội mấy năm
trước, tôi đă viết bài thơ trên trong nỗi ngậm ngùi. Chắc chúng ta
cũng biết điều đầu tiên khi Bắc quân chiếm được miền Nam họ làm là
triệt hạ phong thủy của miền nam. Những kế hoạch thủy lợi thực chất
là phá tan những long mạch chính yếu. Thủy lợi chỉ gây ngập úng cho
những vùng xưa nay chưa hề có. Thủy lợi lại làm cho nước mặn tiến
sâu vào đất liền, như thế nên gọi là thủy hại th́ đúng hơn. Việc
trồng cây trong nghĩa trang với mật độ dày, gần như mỗi ngôi mộ một
gốc cây nhằm mục đích phá hủy hài cốt một cách âm thầm, những rễ cây
xuyên vào mộ sẽ tạo ra những căn bệnh khó hiểu trong thân nhân của
những người an nghỉ. Xưa nay nghĩa trang của người phương đông
thường nằm ở những nơi thoáng đăng, tránh việc động chạm. Trồng cây
với mục đích khai thác củi cành là một cách phá hoại trực tiếp sự
yên nghỉ của người đă khuất. Giả dụ bây giờ phá bỏ những hàng cây ấy
trả lại phong quang xưa, làm sao tránh khỏi tổn thương khi một gốc
cây hai ba mươi năm bị đốn ngă.
Nên chuyện trùng tu chỉ là một chuyện nói như đùa, đánh giặc trên
mặt giấy. C̣n bao nhiêu hệ lụy và tan tác sẽ tiếp theo khi mà những
người đă nằm xuống không được nghĩ ngơi trong an b́nh. Cái tên Nghĩa
Trang B́nh An chỉ là một kiểu khôi hài đen bẩn thỉu nhằm qua mặt
những người vô can, và là một lưỡi dao xoáy thêm vào vết thương đă
thấm sâu trong phế phủ của những người có thân nhân c̣n nằm trong
vùng đất bị rào cản và cách ngăn này.
tháng 4-/2013
phan nhật tân
Tháng
Tư tan hàng đọc thơ Trần Thanh Nhàn
Tháng Tư tan hàng lòng ta quặn thắt
Dăm bạn bè rã ngũ đã biệt tăm
Sài Gòn ơi ! Ngày đó hờn căm
Phố im lìm bàng hoàng trong nỗi chết
Vì đường xa cách trở và chuyện mưu sinh nơi xứ lạ quê
người, tôi gặp lại Trần Thanh Nhàn hơi muộn. Nhưng nhờ duyên
văn nghệ đẩy đưa nên chuyện bạn bè cùng trường gặp lại nhau
sớm, muộn cũng đều đáng qúi, nhất là sau bao cảnh đổi
đời, mất mát và đau thương của ngày 30 tháng Tư năm 75 .
Trần Thanh Nhàn làm thơ rất sớm từ trước năm 75. Anh đã
sáng tác được hơn 60 bài thơ đầy ắp yêu thương, bi hận trải
dài trên những trang Ronéo qua các bút hiệu như TKN, TMTT và
tên thật.
Ra đời ở An Giang, anh lớn lên ở Long Xuyên và theo học tại
Trung học Thoại Ngọc Hầu. Sau anh lên Sài Gòn, vô học Quốc
Gia Nghĩa Tử , ngôi trường đã dạy dỗ chúng tôi có cha hay
mẹ đã hy sinh tính mạng hay một phần thân thể cho đất nước
. Dù ở thủ đô hoa lệ, nhưng lòng anh vẫn thiết tha ngóng về
quê nhà đơn sơ, mộc mạc thơm mùi lúa chín, và đám bông bằng
lăng tím rộ cuối mùa bên dòng sông Hậu :
Ai
về sông Hậu quê tôi
Bên kia cồn cát vườn xoài trổ bông
Thoảng thơm lúa đổ đòng đòng
Chiều buông sắc tím bằng lăng cuối mùa
Dĩ nhiên thuở còn đi học, những thằng con trai mới lớn
chúng tôi đã thi nhau trồng cây si với những tà áo dài
trắng thướt tha chung trường để rồi ôm nặng mấy trái sầu
riêng chín mùi :
Sầu anh những buổi hoàng hôn
Sầu anh trăm mối vẫn còn quanh đây
Gửi em trái đắng tình này
Sầu anh giữ lại nhớ mai chia lìa
Nằm trong lớp tuổi vừa lớn lên. Từ năm 65 đến 67 khi chiến
cuộc bắt đầu khốc liệt, lần lượt chúng tôi kẻ trước,
người sau đã bịn rịn chia tay bạn bè, người thương . . . sau
mùa tan trường cuối cùng để lên đường nhập ngũ :
Thuở đó quê mình vương khói lửa
Vào đời anh khoác áo nhà binh
Chia tay từ lúc mùa phượng đỏ
Bỏ lại sau lưng một mảnh tình
Nhớ mãi lúc sắp lên đường trình diện, bạn bè tới thăm
hỏi, chúc tụng may mắn và buồn lo tạm biệt bằng chầu rượu
mọn đầu đời :
Từ
ta bỏ nghiệp bút nghiên
Chiều hôm chuốc rượu tìm quên nỗi sầu
Nhưng dĩ nhiên vượt lên tất cả là mẹ , người đã hy sinh và
nuôi dưỡng đứa con từ tấm bé cho đến lúc lớn khôn để giờ
đây nhỏ lệ nhìn nó sắp lao vào vùng lửa đạn :
Ngày xưa tuổi mới đôi mươi
Làm trai chinh chiến giữa thời loạn ly
Ngày xưa mẹ tiễn con đi
Lệ rưng khóe mắt mẹ từ biệt con
Và . . . cả bọn chúng tôi, lần lượt thằng đăng lính Không
quân, đứa nhào vào Hải quân . . . Riêng Nhàn đi khoá 1/68 Sĩ
quan Thủ Đức. Ra trường với lon chuẩn úy, anh được thuyên
chuyển về Sư đoàn 22 có trách nhiệm trấn giữ vùng Qui Nhơn,
Phú Yên, Phú Bổn . . .
Chiến
sĩ đi chưa hẹn ngày về
Nghìn trùng xa cách mấy sơn khê
Chiếu chăn để lạnh hồn cô phụ
Cứu giúp non sông quyết chí thề
Và sau hai năm xông pha trận mạc, một lần chạm súng với
địch quân, Nhàn lúc đó lên Thiếu uý, đã bị trúng một mảnh
đạn ngay gò má trái ! Trực thăng tản thương bốc anh ra Bệnh
viện hạm của HQ Mỹ đang bỏ neo ngoài khơi. Để cứu mạng,
bác sĩ phải khóet cả mắt trái để gắp mảnh đạn ra, và anh
bị khiếm thị một bên từ đó ! Rồi anh được giải ngũ, thành
thương phế binh và về phục vụ tại Bộ Cựu Chiến Binh.
Tôi người lính cô đơn
Nửa đường gẫy cánh vẫn còn mải mê
Ra đi đâu có hẹn về
Mà sao nuốt vội lời thề năm nao
Làm
công việc văn phòng, anh có chút thì giờ tiếp tục làm thơ
và hoàn thành thi tập : Người Về Từ Đakto. Trưa ngày lịch
sử 30 tháng 4 năm 1975 đau thương, anh bắt buộc phải rời bỏ
nhiệm sở, không quên mang theo đứa con tinh thần của mình.
Nhưng ra cổng tập thơ đã bị tịch thu tại chỗ ! Sau khi bị đi
cải tạo một thời gian ngắn diện công chức, anh về sống lây
lất 10 năm như bao người VN khác trong cái xã hội mới giống
nhà tù lớn để chờ ngày . . . vượt biên :
10
năm mà ngỡ nghìn thu
Lẽ nào phải chịu ngục tù bủa vây
Nửa đời sau ở chốn này
Xác thân còn đó hồn bay chốn nào
Rồi
. . . cuối cùng anh cũng đi thoát được sau khi bằng lòng dâng
căn nhà cho họ . Đến Mỹ năm 1985, anh vừa đi làm, vừa tiếp
tục sáng tác nữa. Thi tập Cuối Đời Ta Lưu Lạc của
Trần Thanh Nhàn, như bây giờ tôi mới được đọc đã ra đời lâu
rồi, kể lại cuộc đời bầm dập của một thương phế binh VNCH
sống quay quắt với nỗi nhớ thương quê hương, gia đình, bạn
bè, ngày cũ . . . nơi xứ lạ, quê người :
Ta về nhan sắc tàn phai
Thân mang phế tích sau ngày chiến chinh
Đường xa ta kẻ độc hành
Cuốn trong gió cát dấu chân đã mòn
Mấy
năm sau , Trần Khán Sơn, bạn thân cùng lớp của Nhàn, và của
tôi cũng lọt tọt qua Mỹ diện HO. Sơn, tay đờn chải chuốt và
bay bướm nhất trường Quốc ngày xưa, lình xình, làng chàng
nấn ná đời xi-vin rồi cuối cùng cũng phải vô Thủ Đức sau
đám bạn bè. Nhưng hắn lại lì nhất, đánh đấm hung hãn nhất
, được nắm chức Đại đội trưởng đại đội Trinh Sát Sư đoàn
22, rồi được đặc cách lên lon Đại úy. Sau 75, dĩ nhiên hắn
lãnh đủ gần 10 năm tù cải tạo :
Tin
mày qua
diện HO
Chung vui
mày được đến bờ tự do
Bao năm mày sống lao tù
Quên đi
như đã nghìn thu qua rồi
Từ
nỗi buồn nhỏ tháng Tư tan trường của tuổi học trò đến nỗi
buồn tháng Tư Đen của đất nước, anh đã diễn tả lại tâm
trạng một học trò lúc nhỏ, một thương phế binh sống đời
lưu vong:
Nỗi buồn tháng Tư :
Ta không muốn mà tháng Tư vẫn đến
Mùa chia tay của tuổi học trò
Tháng Tư buồn – Ôi ! đã mấy năm qua
Khi nghĩ đến ta chảy hoài nước mắt
Tháng Tư tan hàng lòng ta quặn thắt
Dăm bạn bè rã ngũ đã biệt tăm
Sài Gòn ơi ! Ngày đó hờn căm
Phố im lìm bàng hoàng trong nỗi chết
Ôi nhục nhằn tim hằn sâu dấu vết
Của những người cam chịu kiếp lưu vong
Kẻ ở quê nhà đau khổ chung thân
Đêm vẫn từng đêm đợi chờ ánh sáng
Tổ quốc ơi ! Tình yêu ta lai láng
Mãi cho người dù xa cách muôn phương
Kỷ niệm còn đây trên mỗi chặng đường
Từ Pleiku – Cheo Reo * – bốn mùa đất đỏ
Từ miền Tây – Long Xuyên quê hương ta đó
Dòng An Giang sông nước vẫn miệt mài
Những cánh đồng chan hòa ánh ban mai
Còn đâu nữa khi hồn ta vụn vỡ
Tháng Tư ơi ! Mùa hoa phượng đỏ
Ta mãi căm thù ngày đó chia tay
Xin cho ta hy vọng ở ngày mai
quê hương Việt Nam chờ ngày tao ngộ
Những ngày cuối tháng Tư Đen đọc thơ Trần Thanh Nhàn, lòng
tôi chùng xuống, nhớ những thằng bạn xấu số đã vĩnh viễn
ra đi trước , sau cuộc chiến năm xưa ; những thằng bạn thành
thương phế binh đã mất một hay nhiều phần thân thể, hiện
đang sống lây lất cho xong quãng đời còn lại . Kính phục và
thương cảm.
Q nhà lá vườn
Tháng Tư, 2012
Chú Thích :
*
Cheo Reo :
Tên tỉnh Phú Bổn trước năm 1975
|