(thơ Mừng bạn - tác giả GS Phạm Nghệ)
GS Nguyễn Sơn (dạy Toán)
Đường thẳng song song khó gặp nhau
Bao năm xa cách nỗi niềm đau
Vậy mà vẫn chống theo chiều gió
Có gian nan mới biết vàng thau
GS Lư Công Chuẩn (dạy Anh văn)
Dạy dỗ ba câu oẳn tù t́
Mặc đàn cho suả lữ hành đi
Ai mà biết được đời thế nhỉ
Thế rồi nay đă sờ vân ty
GS Nguyễn Khuê (dạy Việt văn)
Văn chương bốn bồ chữ thánh hiền
Đổi đời sao lắm nỗi đảo điên
Đêm nằm có thấy ḿnh hoá bướm
Mộng như Trang Tử ấy là tiên
(thơ Mừng bạn - tác giả GS Phạm Nghệ)
Có hai GS/QGNT đă tững dạy tại
Đại Học Văn Khoa Saigon. -
Dó là Thầy Trần Bích Lan và Thầy Nguyễn Khuệ Thầy
Nguyễn Khuê là một người tinh thông Hán Văn, rất
nghiêm túc trong phong cách và cuộc sống. T́nh cờ tôi
và Thầy ở chung trại Hàm Tân Z 30D. Tôi lên rừng
trước, c̣n Thầy được chuyển từ trại Hốc Môn về.
Bấy giờ tôi trong toán xây dựng c̣n Thầy trong đội
nông nghiệp trồng khoai sắn và đôi khi có trồng lúạ
Trong trại cấm "quan hệ" nghĩa là nói chuyện với nhau
từ đội này sang đội khác, nhà này sang nhà khác, và
những anh trong các đội cựu sĩ quan rất tôn trọng kỷ
luật, có lẽ nghĩ rằng nhờ thế sẽ được sớm tha về!
Đội Trưởng đội của Thầy Khuê là một cựu Đại Úy
Quân Cảnh. Tôi có lần t́m cách nói chuyện với vài anh
trong đội này, nhưng họ chỉ trả lời xă giao, có lẽ
cũng ngại không biết tôi là thành phần nàọ Sau đó tôi
chuyển trại khác, không biết Thầy được về từ khi
nào, Riêng tôi măi đến 88 mới trở lại Sai gon, rồi
lại bị cuốn vào ṿng cơm áo để sinh tồn, ba ch́m bảy
nổị
Gần Tết năm 69 Kỷ Dậu, tôi gửi bài Sớ Táo Quân cho
báo QGNT biết chắc là sẽ được đăng, không phải v́
tôi là TB/HTBC, mà biết v́ bài sớ của tôi lạ, làm theo
thể phú hạn vận. Thầy Nguyễn Khuê là Cố Vấn cho Ban
Báo Chí năm này đă chọn bài như tôi nghĩ. Bài sớ
mở đầu như sau:
Trời ơi là Trời, xét dùm chuyện bếp!
Lắm chuyện điên đầu, mệt gần muốn chết!
Nhớ năm qua:
Chức Táo chủ trời ban, Nghiă Tử Đường xét việc.
và kết bằng câu:
Mong cho hưu trí về vuờn, Xin cắt dùm dây oan nghiệt
(Đúng là cầu được ước thấy)
Trước khi rời Việt Nam, thỉnh thoảng tôi có gặp Thầy
Khuê quần áo luôn chỉnh tề trên chiếc Honda Dame màu
xanh lá ở khu Tân Định mỗi lúc tôi đi làm về nhà ở
Phú Nhuận. Mấy mươi năm chưa một lần nói chuyện
với Thầỵ Dù tôi không có duyên học với Thầy nhưng
tôi vẫn xem Thầy như một mẫu người tiêu biểu cho
nhà Nho ngày xưa: "bần tiện bất năng di, phú quư bất
năng dâm,
uy vũ bất năng khuất". Nay biết chuyện của Cô,
mới thêm khâm phục cách xử sự với bạn tao khang của
Thầy : "Tao Khang chi thê, bất khả hạ đường."
Xin gửi đến Thầy ḷng tâm phục khẩu phục của một -
đứa học tṛ ngổ ngáo không có duyên may học với Thầy
nhưng lúc nào cũng xem Thầy như là một biểu tượng -
để ḿnh vươn tớị
Xin nguyện cầu ơn Trên ban cho Thầy sức mạnh trí tuệ
để vượt qua những khổ đau thân xác do tuổi tác và
bệnh tật gây rạ
Xin nhờ các bạn đồng môn giúp đỡ việc thăm nom an ủi
Thầy trong lúc nàỵ
pnt/1970
Bán Tự Vi Sư
Làm như điềm báo trước có ngày ḿnh sẽ đi Taiwan học,
nên từ nhỏ tôi đă khoái vẽ chữ Tàụ Tuy một tuần chỉ
có một giờ Hán Văn thời trung học đệ nhất cấp nhưng
những giờ chữ Nho này tôi thường miệt mài và cảm
thấy rất thú vị Những điều tôi học được từ thày Hoàng
Vinh, đến thày Bàng, rồi cô Dung mà tôi c̣n nhớ rơ các
quy luật viết chữ Tàu, nào là trên trước dưới sau; trái
trước phải sau; nét ngang trước nét sổ sau, v.v....
Học xong trung học, giữa năm 1974 trong thời gian chờ đợi
để đi Taiwan học, biết ḿnh phải trau dồi tiếng Trung Hoa càng lẹ
th́ càng đỡ gặp khó khăn nơi xứ lạ quê ngườị Tôi t́m mua đủ
thứ sách dạy tiếng tàu để học. Đặc biệt anh bạn học Văn Khoa
chỉ mánh. Muốn học viết chữ Tàu mày lên Văn Khoa học ké vào
ngồi trong lớp Hán Văn không tốn tiền. Từ đó tôi biết thày
Nguyễn Khuê, rồi nghe bạn bè truyền miệng ngày trước thày
đă từng dạy ở QGNT, mà thày th́ đông học tṛ quá nên không
hay có thằng học tṛ ké. Tuy không ghi danh nhưng tôi cũng mua quyển
Hán Văn Tân Khóa Bản của Nguyễn Khuê do nhà sách Lửa Thiêng
ấn bản và giữ rất kỹ cho đến ngày naỵ
Thưa thày, tiếng Hoa ngày xưa học được nay con đă trả lại Tàụ
Nhưng chữ của thày con c̣n giữ nguyên đây, xin phép thày
cho con chép lại đôi ḍng để chia xẻ với anh chị em trong gia đ́nh
QGNT
Hồi hươngngẫu thư
Hạ Tri Chương
Thiếu tiểu ly gia, lăo đại hồi,
Hương âm vô cảI, mấn mao thôi.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn: “Khách tùng hà xứ lai ?”
Nguyễn Khuê dịch:
Ngẫu nhiên viết khi về làng
Thuở nhỏ ra đi, trở lại già,
Giọng quê chẳng đổi, tóc sương pha.
Trẻ con trông thấy không quen biết,
Cười hỏi: “Khách người ở chốn xa ?”
Lương Châu từ
Vương Hàn
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm, tỳ bà mă thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?
Nguyễn Khuê dịch
Bài hát Lương Châu
Rượu bồ đào, chén dạ quang,
Chưa vơi, trên ngựa tiếng đàn giục đi.
Say nằm băi cát cười chi,
Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về.
Dạ tứ
Lư Bạch
Sáng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Nguyễn Khuê dịch:
Tưởng nghĩ trong đêm
Ánh trăng chiếu trước giường,
Ngỡ mặt đất mờ sương.
Ngẩng đầu nh́n trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Ba bài trên trích từ Hán Văn Tân Khoá Bản của Nguyễn Khuê)
Mới ngày nào thày c̣n đứng trên bục giảng bàị Dáng thày hiền
ḥạ Cung cách phương phi của một cụ đồ nho tân thờị Nay nghe
tin thầy lâm bịnh, con nguyện cầu ơn trên cho thày chóng b́nh phục
.
Kính Thày,
Do Ngoc Vinh, qgnt73
|
|

Thầy
Nguyễn Khuê trong
Buổi Hội Ngộ và Tri Ân Thầy Cô
Các tác phẩm của Thầy
Nguyễn Khuê, cựu GS Việt Văn QGNT:
Tâm trạng Tương An quận
vương qua thi ca của ông (1970)
Nghị luận văn chương
(1972)
Tự học Hán văn (1973,
tái bản 1995)
Chân dung Hồ Biểu Chánh
(1974, tái bản 1998)
Gia Định qua thơ văn xưa
(1987)
Những vấn đề cơ bản
của chữ Nôm (1987)
Từ điển Hán - Việt
(1991)
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch
Vân am thi tập (1997)
Hương Trời Xa Bay (Thơ,
1998)*
Nguyễn Trăi toàn tập tân
biên (Soạn chung, 1999 và 2000)
Cơi Trăm Năm (Thơ,
2002)**
Ba mươi năm cầm bút
(2004)
Sơ lược và ảnh hưởng của
Chư tổ Thiền Thái Tông (2005)
Trăm Năm Là Cuộc Lăng Du
(Thơ, 2005)***
*Biết đời như mây bay
Sao măi nhặt cho đầy
Ra đời hai tay trắng,
Ĺa đời trắng hai taỵ
**Mây bay nước chảy hững hờ,
Đá ṃn rêu bám bên bờ
thời gian.
Trăm năm là cơi hợp tan,
Chuyện đời dâu biển phiếm
bàn mà chơi.
***Đời muôn màu muôn vẻ,
Nhiều điều chưa nói ra
Ai người sau tri kỷ,
Xin nói tiếp thay ta.
Tài liệu trên đây do Thầy
Nguyễn Văn Xiêm, cựu GS Anh Văn QGNT và ĐHVK Saigon, gữi đến.
Một Chiều Tháng
Ba với Thầy Nguyễn Khuê
Tôi học Hán văn với Thầy Nguyễn Khuê khoảng một năm, từ đầu
muà Thu 1974 đến giữa Xuân 1975.
Dạo ấy, Viện Đại học Cần thơ đă mở rộng và đang trên đà
phát triển. Sĩ số ngày càng đông, sinh viên không những chỉ ở
quanh đồng bằng sông Cửu long như trước mà c̣n đón chào "khách"
từ Saigon, Biên hoà; thậm chí cả những tỉnh miền Trung nữạ
Theo nhu cầu, một số giáo sư được mời từ các DH Sai gon về
giảng dạy, trong đó có Giáo sư Nguyễn Khuê (DH Văn Khoa).
Tôi nhớ. các Thầy từ Thủ đô xuống được ưu đăi lắm. Có nhà
để nghỉ, có xe hơi chở đến trường. Tan giờ học, tài xế đậu xe
sát giảng đường đón các Thầỵ
Thầy Nguyễn Khuê rất tận tâm dạy dỗ sinh viên, cách giảng dễ hiểu
và gợi nhiều h́nh tượng để học tṛ dễ nhớ loại chữ "rồng bay
phượng muá " nàỵ
Một chiều tháng Ba năm 1975, trên bục giảng, Thầy trầm ngâm suy nghĩ;
lúc th́ nh́n ra những cánh đồng đằng sau giảng đường, lúc lại trông
ra đại lộ Nguyễn Viết Thanh phiá trước. Cuối cùng, Thầy thở dài khẽ nói:
"Các em biết không, Ban mê thuột đang bị uy hiếp ... Rồi nào
ai biết được những ǵ kế tiếp."
Hôm đó, lần đầu tiên, Thầy cho nghỉ sớm. Đám sinh viên chúng tôi
tụm năm túm ba bàn chuyện thời sự
Từ buổi chiều hôm đó. đến nay đă 31 năm rồị
Tôi vẫn nhớ gương mặt buồn hiu và dáng vẻ lo lắng cuả Thầy khi
báo tin về t́nh h́nh chiến trường.
Hôm nay, nghe tin Thầy lâm trọng bịnh, tôi chỉ biết cầu nguyện cho
Thầy có nhiều nghị lực để vượt qua những đau đớn, thử
thách trên giường bê.nh.
Tôi cũng gửi nơi đây ḷng biết ơn với người Thầy đă chỉ dạy
cho tôi từng nét ngang, nét móc, nét sổ, nét mác ... trong những ngày
đầu học Hán văn.
Năm ấy, tôi có thi môn Hán văn. Nhưng ... có lẽ bài thi cuả tôi không
bao giờ được chấm, và sau đó tôi không c̣n được gặp Thầỵ
phamvanduc
|