............ diễn tả 50 năm,
những mảnh đời QGNT bằng trang sách đă lật sang, một trang sách có
cánh hồng héo úa, ấp ủ giữa rêu phong, nhăm nhúm - là những kỷ niệm,
những niềm thương mến bị khỏa lấp trong những nhọc nhằn, bôn ba.
Sau trang sách ấy là một mảnh trời yêu dấu, có những cánh
chim, một ánh mây của một thời mơ mộng...... Khoảng thời gian 1963 -
2013 đầy biến động và đổi thay được viết bằng những mầu chuyển đỏ,
vàng.
|
Thành Lập
Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc
Hắc Bảo Đăng
Luật số 3/62 qui định sự liên đới quốc gia tương trợ các cựu chiến sĩ và cô nhi
quả phụ tử sĩ:
ĐIỀU THỨ 17: -- Quốc Gia thừa nhận là nghĩa tử các trẻ vị thành niên, dưới 18
tuổi, mà cha hoặc mẹ là chiến sĩ đă bỏ ḿnh v́ chính nghĩa quốc gia, hoặc đă
chết v́ chiến thương.
ĐIỀU THỨ 19: -- Các quốc gia nghĩa tử, sẽ được nuôi nấng dậy dỗ, trông nom săn
sóc hay trợ giúp cho đến khi đủ 18 tuổi.
Để cụ thể hóa sự liên đớiu quốc gia tương trợ các chiến sĩ, cựu chiến sĩ và quả
phụ tử sĩ, cùng các con của họ để giúp chúng có điều kiện trở thành những cán bộ
ưu tú của Quốc giạ một trường Trung học nội trú đầu tiên của Quốc gia nghĩa tử
cuộc đă được xây dựng xong trên khu đất rộng 5 mẫu, tại đường Vơ-Tánh,
Tân-Sơn-Ḥa - Gia Định.
Đúng theo tinh thần đạo luật 3/62, Mục thứ năm, nói về Tổ chức Quốc gia Nghĩa tử
cuộc, cơ quan này đă được thành lập thuộc Bộ Quốc pḥng, có Bộ Quốc gia Giáo dục
trợ giúp về vấn đề giáo dục.
Ủy ban vận động xây cất trường sở gồm có quư ông: Trưởng ban: Trương-văn-Chôm,
Khoa trưởng Dược khoa Đại học đường; Phó Trưởng ban: Nguyễn-văn-Hoanh, Chủ-tịch
Hội-đồng Đô thành; Trần-ngọc-Tŕnh, Hội trưởng hội Bảo trợ gia đ́nh tiết nghĩa;
Thư kư: Đinh-văn-Khai, Chủ nhiệm nhật báo Tiếng Chuông; Thủ quỹ: La-thành-Nghệ,
Dược sư; Kiểm soát: Vơ-văn-Ứng, đại diện nhà thuốc Vơ-văn-Vân; Nguyễn-văn-Phước,
Giám đốc hăng Phước Mỹ; Cố vấn: Thiếu tu8ớng Trần -tử -Oai, Giám đốc Nha Chiến
tranh Tâm lư; Trương-khuê-Quan, Y sĩ Trung-tá, Giám đốc Nha Xă hội Quân đội Việt-Nam
Cộng-Ḥa; Nguyễn-đ́nh-Hưng, Đổng-lư văn pḥng Bộ Quốc gia Giáo dục; Bác sĩ
Bùi-kiến-Tín; Kiến-trúc-sư Trương-đức-Nguyên.
Với tiền đóng góp của một số nhà từ thiện và Ngân sách của Bộ Quốc pḥng, công
cuộc để xây dựng trường Trung học đầu tiên của Q.G.N.T.C đă hoàn thành đợt đầu
theo đồ án của K.T.S Trương-đức-Nguyên, phí tổn gần 9 triệu đồng.
Hai ngôi nhà 2 từng lầu song hành với 30 lớp học đă xây cất xong, cùng với khu
văn pḥng.
Trên 3.000 học sinh đă có thể có chỗ học vào niên học tới.
Khu dành cho học sinh (1.200) nội trú thuộc chương tŕnh công tác đợt ỊI Khu này
gồm một ngôi nhà 2 từng lầudài 125 m dài gồm 12 pḥng ngủ, phí tổn lối 8 triệu
rưỡi đồng.
Theo với nhà ngủ ấy, sẽ có quán cơm, nhà bếp và phụ thuộc, bệnh xá và nhân viên,
nhà gác cùng khu thể thao, sân chơi.
Theo dự thảo Nội quy của nhà trường th́ ngoài mục đích xă hội đă nêu trên, ngoài
phần giáo dục căn bản, nhà trường sẽ áp dụng phương pháp trắc nghiệm tâm lư để
t́m hiểu khả năng của các con chiến sĩ, giúp chúng phát huy đầy đủ những khả
năng ấy, nhằm mục đích giúp chúng chọn lấy một nghề thích ứng với tài năng riêng:
binh nghiệp, nghề chuyên môn: Bác sĩ, Kỹ sư, Giáo sư v.v... sau khi đă theo học
hết ban Trung học và đậu cấp bằng Tú tài.
Cũng theo dự thảo ấy, các học viên Nghĩa tử Quốc gia sẽ được miễn học phí và
không phải trả một phí khoản nào về sự ăn ở tại trường. Nếu đủ 18 tuổi mà Nghĩa
tử Quốc gia c̣n đương học hành giở dang, th́ theo đề nghị của trường, các học
viên có thể xin gia hạn cấp dưỡng để theo học đến thành tài.
Như vậy, Q.G.N.T.C thật là một công cuộc bác ái vô cùng hữu ích cho xứ sở.
H. B. Đ.
Sơ
Lược Tiểu Sử
Ủy Ban Vận Động Xây Cất Trường QGNT
Trích thư của Ông Đinh Văn Khai gởi Bác Sỹ Trương Khuê Quan
Montreal ngày 4 tháng 5 năm 1992
Anh Trương Khuê Quan thương mến,
Tiếp theo cuộc điện đàm hôm qua, theo thơ này, tôi gởi
kèm theo phóng ảnh thơ ngày 27 tháng 4 năm 1992 mà tôi đã
gởi cho anh nơi địa chỉ ở Hollande. Ủy Ban Vận Động xây
cất Quốc Gia Nghĩa Tử lúc ấy, năm 1962, gồm những anh
dưới đây:
1.
Anh Trương Văn Chôm, Khoa trưởng Dược khoa: Trưởng
ban, anh Chôm sang Pháp nên tôi mời ông Nguyễn văn Hoanh,
Chủ tịch Hội Đồng Đô Thành thay thế Trưởng Ban.
2.
Phó Trưởng Ban kiêm Tổng Thư Ký : Đinh Văn Khai, Chủ
nhiệm Nhật báo Tiếng Chuông; có hai ký giả phụ giúp là
Nguyễn Ang Ca và Phong Đạm. Trụ sở Ủy Ban Vận Động Xây
Cất QGNT đặt tại nhà tôi số 107 Pasteur,
sau dời lại 92-94 Gia Long, tòa soạn của nhựt báo Tiếng
Chuông.
3.
Anh La Thành Nghệ, Dược Sỹ : Thủ Quỹ
4.
Anh Trương Đức Nguyên, Kiến Trúc Sư vẽ đồ án không
nhận tiền thù lao.
5.
Anh Trần Ngọc Trình, Thầu Khoán, xây cất hứa không
lấy lời.
Những hội viên do tôi mời : Bà Bút Trà, chủ nhiệm nhựt
báo Sài gòn Mới; chị Nguyễn Thị Hai, dược sỹ; anh
Trương văn Tố, dân biểu; anh Võ văn Ứng, thương gia,
(Bầu
Ứng thể thao).
Mỗi vị trong UBXC/QGNT, UBVĐ/XC/QGNT cũng như các hội viên
đều đóng góp mỗi người hai trăm ngàn đồng
(200,000
đồng)
để giúp Cơ Quan Văn Hoá phước thiện này. Riêng anh Nguyễn
Cao Thăng, dược sỹ, chủ hãng thuốc tây OVP : Office
Pharmacetique Vietnamien có giúp năm chục ngàn đồng 50,000
đồng. Ông Châu ngọc Thôi, Đổng Lý Văn Phòng Bộ Quốc
Phòng mà Bộ Trưởng là Ông Nguyễn Đình Thuần, đại diện
Bộ Quốc Phòng, cũng có công trong UBVĐXC/QGNT.
Hiện giờ những vị trong Ủy Ban Vận Động xây cất Quốc
Gia Nghĩa Tử và hội viên còn lại là những anh dưới đây:
Các anh: Trần Ngọc Trình, hiện ở Pháp
Đinh văn Khai, hiện ở Montreal, Quebec, Canada
La Thành Nghệ, hiện ở California, Hoa Kỳ
Trương Đức Nguyên, hiện ở Connecticut, Hoa Kỳ
và chị Nguyễn thị Hai, hiện ở California, Hoa Kỳ
Nhưng những người có công nhiều nhất là Bác sỹ TT và
anh.
Tiện đây, tôi góp ý cùng anh: Nhân dịp Đại Hội QGNT đầu
tháng 6/1992 tới đây, anh vui lòng nhắc đến tất cả các
anh chị đã góp công vào việc xây cất Quốc Gia Nghĩa Tử
cho các cựu Giáo sư và Nam Nữ Sinh Viên QGNT hải ngoại
được biết.
Thành thật chúc Đại Hội Quốc Gia Nghĩa Tử thành công
mỹ mãn.
Cuối thư, chúc anh chị luôn được sức khỏe dồi dào.
Đinh văn Khai
50 năm trước cha vị
quốc
38 năm sau con thành
gia
Ai từng học trường
nghĩa tử
Không quên ơn người
lập ra
Minh
Chí |
Giới Thiệu :
Viện Giáo Dục Quốc Gia Nghĩa Tử (QGNT)
được thành lập vào tháng 9 năm 1963 tại Sài G̣n nhằm cung ứng nơi ăn ở và
học hành cho con em các tử sĩ , thương phế binh của quân đội Việt Nam Cộng
Ḥa .Ngôi trường này được thiết kế theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ và được coi là một
trong những cơ sở giáo dục khang trang, tân tiến nhất bấy giờ .
Đây là một chương tŕnh của chính phủ để
tỏ ḷng tri ân của quốc gia đối với những người đă cống hiến xương máu hoăc
hy sinh cho tổ quốc . Vào thời gian đó, đa số các gia đ́nh thương binh tử sĩ
không biết đến chương tŕnh này, v́ thế, niên học đầu 1963-1964, chỉ có
khỏang 500 học sinh ghi danh học tại trường QGNT Saig̣n.
Thời gian đầu, Viện chỉ có một chương
tŕnh giáo dục phổ thông . Đến năm 1967, trườngKỹ Thuật được thành lập, và
sang năm 1968, chương tŕnh giáo dục tổng hợop cũng được sáng lâp. Dần dần,
khi số học sinh gia tăng , chính phủ tiến hành xây dựng các trường QGNT tại
Huế, Đà Nẵng , Cần Thơ và Biên Ḥa ... để giúp đỡ các gia đ́nh trong khu vực
có điều kiện học hành Sau 12 năm họat động, Viện Giáo Dục QGNT đă có 5 cơ sở
trên ṭan quốc, với gần 400 giáo sư và trên 5000 học sinh từ tiểu học đến
trung hoc.
Viện đă cung cấp hàng trăm học bổng từ
nhiều quốc gia trên thế giới cho học sinh QGNT đi du học sau khi tốt nghiêp.
TẢi LiỆU LIÊN QUAN QGNT bằng ANH
NGỮ:
From the Height of a Political Career to Exile
From 1969 to 1974, General Đồng served military personnel in a different
capacity, Minister of War Veterans (equivalent to the US Secretary of Veterans
Affairs). During this time, he worked with West Germany to get financial and
medical support for disabled veterans. His relationship with German officials in
Oberhausen resulted in military orphans or children of disabled veterans going
there to further their education. Most of the students came from the seven
ministry-sponsored Quốc Gia Nghĩa Tử schools. Minister Đồng's personal ties with
Australian, Taiwanese and South Korean officials benefited Vietnamese veterans.
During his tenure, Australia, Taiwan and South Korea provided much needed
funding and training to disabled veterans at vocational facilities. His
friendship with an American adviser Shelby Robert and his wife Miriam benefited
the ministry as well. In April 1973, the Robert and the Gettysburg Presbyterian
Church donated several wheelchairs and provided funding to train a Vietnamese
doctor from the ministry. Later that year, the minister traveled to the United
States and several western European countries to ask for financial assistance.
The trip yielded good results: several US colleges provided the ministry with
funding for the its prosthetic center. In particular, Ohio State University sent
professors to train teachers and to teach QGNT's students in three special
courses: typing, accounting and home economics.
Quốc Gia Nghĩa Tử = Ward of the Nation was a brainchild of Lieutenant Colonel
Trương Khuê Quan who modeled it after France's "Office des Pupilles de la
Nation". This independent agency was formed in October 1963 to provide
educational opportunities for war orphans and children of war invalids/disabled
veterans. In 1967, the Ministry of War Veterans took over the agency but
continued to let it run by an independent management committee. By the end of
the Vietnam War, QGNT had seven schools and 4 dormitories with over 200 teachers
and an administrative staff close to 300 persons (most of whom were military
widows, war disabled veterans and family members of soldiers who had died during
the war).
LỊCH TR̀NH THÀNH LẬP CƠ QUAN
QUỐC GIA NGHĨA TỬ VIỆT NAM
Năm 1962, Y Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan là Cục Trưởng Cục Xă Hội
Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa. Ông theo lệnh Bộ Quốc Pḥng thực hiện
hai chương tŕnh Quân Tiếp Vụ và Trại Gia Binh để giúp đỡ gia đ́nh
các quân nhân tại ngũ. Khi việc điều hành hai chương tŕnh này đă
tạm ổn định, Cục Xă Hội tŕnh là việc lo cho quân nhân tại ngũ không
th́ chưa đủ mà chính phủ c̣n phải nghĩ đến những chiến sĩ đă hy sinh
cho chính nghĩa quốc gia nữa. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm chấp thuận ư
kiến này và giao cho Bộ Quốc Pḥng nghiên cứu để thực hiện một
chương tŕnh tương tự như Office des Pupilles de la Nation của Pháp.
Để xúc tiến mau chóng đề nghị đă được sự ưng thuận của thượng cấp và
biết rằng Ngân Sách Quốc Gia chưa có ngân khoản nào dành cho chương
tŕnh này. Y Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan đă vận động các bạn hữu
của ông để đóng góp tài chánh hầu bắt tay vào việc ngay được. Các
bạn ông đă vui ḷng hưởng ứng và các vị sau đây đă chung góp mỗi
người 200,000 đồng:
Ông Trương Văn Chôm, Khoa Trưởng Đại Học Dược Khoa.
Ông Nguyễn Văn Hoành, Chủ Tịch Hội Đồng Đô Thành.
Ông Đinh Văn Khai, Chủ Nhiệm Nhật báo Tiếng Chuông.
Ông Nguyễn Ang Ca, báo Tiếng Chuông.
Dược Sĩ La Thành Nghệ.
Dược Sĩ Nguyễn Thị Hai.
Dân Biểu Trương Văn Tố.
Bà Bút Trà, Chủ nhiệm báo Sàig̣n Mới.
Ông Vơ Văn Ứng, thương gia.
Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng.
Ngoài ra, Kiến Trúc Sư Trương Đức Nguyên nhận vẽ đồ án không lấy
tiền thù lao và ông Trần Ngọc Tŕnh, thầu khoán cũng nhận xây cất
không lấy lời.
Cục Xă Hội Quân Đội có nhận xét là nên khởi đầu bằng một ngôi trường
và nên lấy danh xưng những con của tử sĩ và phế binh là Quốc Gia
Nghĩa Tử (như chữ Pupilles de la Nation của Pháp, tránh chữ "trẻ mồ
côi" có thể làm tủi ḷng những trẻ em này). Những đề nghị của Cục Xă
Hội đều được chấp thuận và được ông Châu Ngọc Thôi, Đổng Lư Bộ Quốc
Pḥng đă giao cho Đại Úy Bùi Trọng Chi, Tham Chánh Văn Pḥng, phụ
trách việc nghiên cứu và dự thảo các văn kiện thủ tục giấy tờ thành
lập cơ quan đặc biệt này.
Thấy là nếu làm theo Pháp, các Quốc Gia Nghĩa Tử sẽ trở thành gần
như những Thiếu Sinh Quân, sẽ khó ḷng làm hài ḷng các gia đ́nh tử
sĩ và phế binh, Bộ Quốc Pḥng đề nghị thành lập một Quốc Gia Nghĩa
Tử Cuộc, một cơ quan tự trị có hoạt động rộng răi và dễ dàng hơn
Trung Tâm Giáo Khoa Quân Đội (điều hành các trường Văn Hóa Quân Đội
Sàig̣n, Đà Nẵng, Nha Trang, và Cần Thơ) đặt trực thuộc Cục Xă Hội
Quân Đội. Mọi ư kiến đưa ra, khi tŕnh lên đều được Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm chấp thuận và mọi việc được lập tức khởi sự. Một thửa đất
rộng lớn trên đương Chi Lăng, giữa khoảng Lăng Cha Cả và Ngă Tư Bảy
Hiền, cánh Nghĩa Địa Pháp, trước Sở Chăn Nuôi, được lựa chọn và nhà
thầu khởi công xây cất ngôi trường gồm hai ṭa nhà ba tầng, mỗi ṭa
có 15 lớp học, cùng một Văn Pḥng cho Ban Giám Đốc trường, bao quanh
một vườn hoa kiểu Nhật Bản. Công việc xúc tiến êm đẹp và đến tháng 8
năm 1963 th́ ngôi trường hoàn thành, đồng thời sắc lệnh thành lập
Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc cũng được duyệt kư. Cuối tháng 9, ngôi trường
được khánh thành do Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chủ tọa và đó cũng là
lễ cuối cùng của ông trước khi bị sát hại trong cuộc đảo chánh
1-1-1963.
Niên học đầu tiên 1963-64 được khai giảng ngay sau những ngày đầu
của cuộc đảo chánh. Đại Úy Đỗ Trọng Huề được cử làm Hiệu Trưởng, ông
Trần Văn Bá, giáo sư thuộc Bộ Giáo Dục được biệt phái làm Giám Học
và Trung Úy Trần Văn Mười làm Tổng Giám Thị.
Bộ Giáo Dục chỉ biệt phái được một số giáo sư (trong số này có 4 nữ
giáo sư đầu tiên của trường là các cô Vơ Thị Ngọc Dung, Hồ Thị Ngọc
Nữ, Nguyễn Lan Phương và Vơ Kim Sơn), Bộ Quốc Pḥng đă chọn thêm 15
giáo sư bị động viên có phiếu điểm tốt nhất để thuyên chuyển về
trường hầu có đủ số giáo sư giảng dạy. Niên học đầu tiên đó, v́ chỉ
nhận những em đă có án Quốc Gia Nghĩa Tử nên sĩ số chỉ lên đến
khoảng 500 em. Mặc dù c̣n ít học sinh, Đại Úy Bùi Trọng Chi khi đó
đang làm Giám Đốc Trung Tâm Giáo Khoa Quân Đội, cũng được cử kiêm
nhiệm chức vụ Phụ Tá Hiệu Trưởng và HIệu Đoàn Trưởng để phụ trách
thêm về các vấn đề ngoại học đường, đặc biệt là đức dục và thể dục
như đă được ấn định trong nguyên tắc điều hành trường. Các nhân viên
văn pḥng và giám thị được tuyển chọn trong số các quả phụ tử sĩ,
phế binh và gia đ́nh. Đặc biệt, Quốc Gia Nghĩa Tử Trần Phương Mai,
có bằng Tú tài toàn phần, đă được tuyển và là nữ giáo sư thứ 5 của
trường.
Niên học thứ hai 1964-65, ông Bửu Trí, một giáo sư kỳ cựu của Bộ
Giáo Dục, được cử thay thế Đại Úy Đỗ Trọng Huề bận quá nhiều công
tác bên Quân Đội. Các gia đ́nh tử sĩ và phế binh nhận thức được việc
chăm sóc tốt đẹp tại một ngôi trường thật rộng răi, khang trang nên
đă nạp đơn tới tấp tại các ṭa án để xin án Quốc Gia Nghĩa Tử, do đó
sĩ số đă tăng thật mau chóng, gấp đôi, gấp ba, chỉ sau một năm hoạt
động.
Cuối năm 1965, văn pḥng Cuộc được xây cất xong trong cùng một khuôn
viên. Y Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan được cử làm Cuộc Trưởng và Đại
Úy Bùi Trọng Chi làm phụ tá. Cuộc gồm có 4 pḥng: Pḥng Hành Chánh,
Pḥng Tài Chánh, Pḥng Học Vụ, và Pḥng Nghiên Cứu, mỗi pḥng do một
chủ sự đảm trách. Cơ quan Quốc Gia Nghĩa Tử không c̣n giới hạn trong
một ngôi trường nữa mà chính thức hoạt động rộng răi như được ấn
định trong sắc lệnh thành lập. Pḥng tài chánh bắt đầu lập các sổ
trợ cấp Quốc Gia Nghĩa Tử và pḥng nghiên cứu những công tác mở mang
cơ quan tại Sàig̣n và trên toàn quốc. Ngân sách tự trị được chấp
thuận bởi Hội Đồng Quản Trị gồm các vị đại diện các Bộ Nội Vụ (thay
mặt các gia đ́nh những nhân viên dân chính bị sát hại), Bộ Quốc
Pḥng (thay mặt các gia đ́nh tử sĩ và phế binh), Bộ Tư Pháp (chuẩn
cấp các án QGNT), Bộ Tài Chánh (cung cấp ngân khoản cần thiết), và
Bộ Giáo Dục (trợ giúp chương tŕnh học vụ).
Năm 1966, trường kỹ thuật được xây cất xong bên cạnh Văn Pḥng Viện
và được hoạt động ngay mặc dù sĩ số hết sức khiêm tốn, với hai lớp
sắt và máy nổ. Ngay những năm sau đó, khi nhận biết được sự lợi ích
của nghề chuyên môn, số học sinh dần dần tăng lên gấp bội. Cũng năm
1966, khu nội trú được xây cất xong gồm 12 pḥng ngủ rộng lớn (mồi
pḥng đủ chỗ cho 80 nội trú sinh) trong một ṭa nhà ba tầng lầu và
một nhà ăn có đầy đủ bếp núc và các nhà để nhân viên nhà bếp ở (các
nhân viên này đều thuộc gia đ́nh tử sĩ và phế binh, đa số là các quả
phụ do Hội Quả Phụ Tử Sĩ giới thiệu vào làm). Nhà ăn được trang trí
thêm một sân khấu mỹ lệ để dùng làm pḥng hội những khi có tổ chức
lễ tết hoặc phát phần thưởng hàng năm. Khu nội trú cũng hoạt động
ngay nhưng v́ ngân sách có hạn nên chỉ có thể nhận các em vào 4
pḥng ngủ ở tầng lầu hai mà thôi. V́ phải hạn chế số nội trú sinh
nên chỉ nhận các em gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, sau đó, ưu tiên hai
mới dành cho các em trong gia đ́nh đông con và ở xa Sàig̣n.
Năm 1967, Bộ Cựu Chiến Binh được thành lập, đă đổi QGNT Cuộc thành
Viện Giáo Dục QGNT đặc trực thuộc Bộ nhưng vẫn giữ nguyên việc điều
hành do Hội Đồng Quản Trị chỉ thêm Đại Diện Bộ Cựu Chiến Binh là Chủ
Tịch Hội Đồng. Bộ cung cấp các phu8ơng tiện cần thiết, nhất là vấn
đề trụ sở và nhân viên, dể Viện mở rộng hoạt động tại các tỉnh khác
trên toàn quốc. Pḥng Tài Chánh của Bộ cũng phụ trách việc trả trợ
cấp QGNT thay cho Viện để Viện chỉ phải chú trọng đến vấn đề giáo
dục các QGNT mà thôi.
Niên học 1967 - 1968 là niên học đầu tiên của trường trung học QGNT
Huế với sĩ số khoảng 100 em. Tết Mậu Thân, đầu năm 1968, trường sở
bị hư hại hoàn toàn nhưng ngay năm đó trường đă được xây cất lại,
đồng thời xây cất luôn một khu nội trú có thể nuôi dưỡng 50 nội trú
sinh. Qua năm 1968, Viện mở thêm được trường trung học QGNT Đà Nẵng,
sĩ số niên học đầu cũng chỉ được chừng 100 em, nhưng sau đó cũng như
cũng như trường ở Huế, số học sinh trường Đà Nẵng cũng tăng dần lên
tới 400 em vào niên học 1974 - 1975. Năm 1969, Viện mở thêm được
trường tiểu học QGNT Biên Ḥa mà ngay niên học đầu tiên sĩ số đă lên
đến khoảng 200 em. V́ các em này đều c̣n nhỏ nên tất cả đều được
nuôi dưỡng trong khu nội trú cạnh trường.
Năm 1970, Viện xây thêm được một bịnh xá ngay sát khu nội trú, có
một bác sĩ và một nhân viên làm việc hàng ngày vào buổi sáng để chăm
sóc sức khỏe cho các QGNT thuộc cả hai trường trung học và kỹ thuật
cùng khu nội trú. Viện cũng liên lạc với Bộ Chỉ Huy Công Binh Đại
Hàn để giúp nhân công quân đội xây cất một thư viện phía trường kỹ
thuật, vật liệu do Viện cung cấp. Trong năn, thư viện được hoàn
thành và ngay sau đó được khánh thành do Đệ Nhất Phu Nhân chủ tọa
buổi lễ.
Năm 1971, Viện mở thêm được trường trung học QGNT Cần Thơ, trường sở
được xây cất do ngân sách của Viện đài thọ, chứ không như các trường
Huế, Đà Nẵng và Biên Ḥa đều là những pḥng ốc của quân đội nhượng
lại, chỉ cần sửa sang thành những lớp học. Ngay niên học đầu trường
Cần Thơ đă có một sỉ số đáng kể, v́ vậy Viện đă dự trù xin ngân
khoản để mở rông thêm và xây cất cả một khu nội trú nữa. V́ gặp
nhiều khó khăn về tài chánh, công tác xây cất mới c̣n trong giai
đoạn sơ khởi đă bị kéo dài và chưa khởi sự được th́ đă bị biến cố
30-4-75 chấm dứt.
Năm 1972, Viện xây thêm được 4 căn nhà dành cho nhân viên cao cấp
của Viện gần bịnh xá và xúc tiến việc xây cất một khu nội trú dành
cho nam sinh giữa nhà ăn và trường kỹ thuật. Khu này được hoàn thành
năm sau gồm một ṭa nhà hai tầng lầu nuôi dưỡng được 100 em.
Với sự giúp đỡ và viện trợ của phái đoàn đại học đường Ohio, Viện tổ
chức trường tổng hợp QGNT, dùng từng dưới cùng của khu nội trú nữ
sinh gồm 3 lớp chính là lớp đánh máy, kế toán và kinh tế gia đ́nh.
Trường chính thức hoạt động kể từ niên học 1973 - 1974, có mở thêm
cả mấy lớp theo chương tŕnh trung học Đệ Thất, Đệ Lục. Khu nội trú
nữ sinh như vậy là đă được sử dụng hoàn toàn cả 3 tầng lầu, tầng
dưới cùng là trường Tổng Hợp, tầng lầu 2 là 4 pḥng ngủ nữ sinh và
tầng lầu 3 là pḥng học tối cho nữ sinh nội trú, nhà nguyện cho các
em theo Thiên Chúa Giáo và Niệm Phật Đường cho các em theo Phật Giáo.
Nếu không có biến cố 30-4-1975, Viện sẽ mở thêm khu nội trú Cần Thơ
và trường trung học QGNT Qui Nhơn. Trường này dự định sẽ xây cất
trên khuôn viên của một căn cứ do quân đội nhượng cho.
Tóm lại, sau 12 năm hoạt động Viện đă tổ chức được 7 trường và 4 khu
nội trú. Tổng số giáo chức các trường lên đến 200 vị (đa số do Bộ
Giáo Dục biệt phái) và trên 200 nhân viên làm việc (đa số là quả phụ,
phế binh và gia đ́nh tử sĩ), đă chăm nom, dậy dỗ và nuôi dưỡng được
cả mấy chục ngàn QGNT và lam nhẹ gánh nặng cho hàng chục ngàn gia
đ́nh của các chiến sĩ đă hy sinh cho Chính Nghĩa Quốc Gia.
Các em là những người không được may mắn trong cuộc chinh chiến dài
hơn hai thập niên đă được đền bù sự mất mát của ḿnh bằng một tương
lai tươi sáng, chắc chắn sẽ trở thành những con yêu của Quốc Gia,
xứng đáng với danh xưng Quốc Gia Nghĩa Tử.
NHUẬN KHÁNH - Bùi Trọng Chi
Nguyên Viện Phó Viện QGNT
Trường Trung Học Tổng Hợp QGNT
GIỚI THIỆU
CHƯƠNG TR̀NH TỔNG HỢP
GS. TRẦN NGỌC HỒ
(Hiệu trưởng Trường Tổng hợp)
Chương tŕnh giáo dục lúc bấy giờ không đạt kết quả như mong muốn
nên các nhà nghiên cứu cần phải đề ra một chương tŕnh mới phù hơp
vói khả năng và điều kiện của Việt Nam ta. V́ thế Chương tŕnh Giáo
dục Tổng hợp ra đời.
I. Giai đoạn chuẩn bị:
A. T́m hiểu kết quả giáo dục phổ thông
Sau khi nghiên cứu theo dơi kết quả 7 năm liên tục của 10 trường
Trung học và của 10 lớp khác nhau có cả nam lẫn nữ, các nhà chuyên
môn nhận thấy:
1. Chỉ có 2 học sinh trong số 100 học sinh Trung học mới lên được
Đại học, học có kết quả và mới ra trường làm việc được, không phải
đào tạo lại (2%).
2. Học sinh không đạt kết quả th́ đi đâu, làm việc ǵ? Có thể nói
tới 75% không t́m được việc làm và hoàn toàn bế tắc trong việc mưu
sinh với 7 năm ở trường trung học phổ thông ra. Kết quả thực là đau
buồn và quá lăng phí.
B. Xây dựng một chương tŕnh giáo dục mới:
Chương tŕnh Giáo dục Trung học Tổng hợp:
1. Triết lư và mục tiêu Giáo dục Tổng hợp:
a. Mỗi con người đều có hoàn cảnh gia đ́nh, điều kiện tài chính,
năng khiếu, ư thích, ước muốn, tâm lư khác nhau nên chương tŕnh đào
tạo phải cung cấp cho họ những kiến thức, kỹ năng đa dạng, phong phú
chi tiết khiến họ vào đời sớm thích nghi hơn.
b. Mục tiêu giáo dục Tổng hợp cung cấp cho học sinh kiến thức, kỹ
năng bảo đảm cho họ vào đời dù mới 18 tuổi, kiếm được việc làm.
• đủ nuôi sống bản thân ḿnh
• giúp đỡ gia đ́nh
• góp sức với xă hội
II. H́nh dung kết quả đào tạo 2 chương tŕnh giáo dục.
Các nhà nghiên cứu giáo dục giáo dục đưa ra 2 h́nh ảnh tóm tắt kết
quả đào tạo sau đây để dễ nhận định:
A. Chương tŕnh cũ:
H́nh tam giác cân được chia làm 3 phần theo chiều dọc (y axis của
khung h́nh bên dưới)
Phần 1: Số học sinh giỏi, xuất sắc chiếm 1/3 của chiều dọc
Phần 2: Số học sinh khiển dụng chiếm 1/3 của chiều dọc
Phần 3: Số học sinh bất khiển chiếm 1/3 của chiều dọc
B. Chương tŕnh Tổng hợp (mới)
Được h́nh dung bằng một h́nh thoi, có diện tích tương đối, cũng được
chia làm 3 phần chiều dọc (y axis của khung h́nh bên dưới)
Phần 1: Số học sinh giỏi, xuất sắc chiếm 1/3 của chiều dọc
Phần 2: Số học sinh khiển dụng chiếm 1/3 của chiều dọc c
Phần 3: Số học sinh bất khiển dụng chiếm 1/3 của chiều dọc
Như thế rơ ràng kết quả đào tạo theo chương tŕnh mới có hiệu quả
hơn nhiều, v́ nó đáp ứng được mọi năng khiếu, ước nguyện và tố chất
của học sinh nên khi ra đời, số học tṛ dễ có thể kiếm việc làm và
thu nhập cao v́ đáp ứng được nhu cầu thiết thực của xă hội sẽ cao
hơn . Xă hội không mất nhiều thời gian tiền bạc để đào tạo lại.
C. Chuẩn bị cán bộ và cơ sở vật chất để thực hiện chương tŕnh Trung
học Tổng hợp:
1. Chuẩn bị cán bộ: một tài khoản viện trợ 500.000 USD để tập hợp
các cán bộ đang quản trị học đường, giỏi ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng
Pháp) đi học để nắm vững : Triết lư, mục tiêu, soạn thảo, thực hiện
chương tŕnh, quản trị và phương pháp đánh giá. Khóa học kéo dài
trong 6 tháng, mỗi tuần học 3 buổi tối, mỗi buổi học 2 giờ. Các
thuyết tŕnh viên giảng dạy đều là các Giáo sư, các nhà nghiên cứu,
soạn thảo, hướng dẫn nước ngoài (Mỹ, Anh, Pháp). Cứ sau mỗi buổi học
th́ các học viên được nhận tiền bồi dưỡng ngay lúc ra về, ở ngoài
cửa lớp. Khóa học đầu tiên đặt tại trường Sương Nguyệt Ánh.
2. Cơ sở vật chất: Chương tŕnh mới yêu cầu phải có cơ sở vật chất
đáp ứng với nó nhưng v́ thời gian gấp rút vả chăng c̣n đang thể
nghiệm nên không thể làm ngay. Trước mắt có 4 trường sau đây xây cất
nên tạm thời có thể sửa chữa được thực hiện chương tŕnh Giáo dục
Tổng hợp.
a. Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Saigon
b. Trường Sương Nguyệt Ánh
c. Trường Nguyễn An Ninh
d. Trường Kiểu mẫu Thủ Đức
III. Công việc thực hiện :
Sau khi đi học về, tôi được giao trách nhiệm thực hiện:
A. Cơ sở vật chất:
1. Trệt khu nội trú cũ:
a. Lớp thực hành Doanh thương tổng quát (General Business)
b. Lớp thực hành Công kỹ nghệ (Industrial Arts and Technology) mới
mở được 3 lớp : In, Gỗ, Sắt.
c. Lớp thực hành Kinh tế gia đ́nh (Home Economics) dạy nấu ăn và may
mặc có trang bị tương đối đầy đủ
d. Lớp Canh nông (Agriculture) mới chỉ dạy 2 môn: trồng trọt và chăn
nuôi
Cuối dăy có xây một pḥng y tế 10 giường: 1 bác sĩ, 2 y tá, 2 điều
dưỡng, chưa có nhân viên theo yêu cầu, chỉ có một bác sĩ làm việc
bán thời gian.
2. Lầu một khu nội trú cũ :
a. Văn pḥng : Hiệu Trưởng, Giám thị
b. Ba pḥng học
c. Một pḥng Lab, học sinh ngữ 30 chỗ
B. Thực hiện chương tŕnh:
Chương tŕnh học được chia làm 8 ban, sau khi học sinh học tốt
nghiệp với bằng Tú tài của 8 ban đó, đều có đủ điều kiện thi lên Đại
học, nhất là chuyên ngành thời càng dễ đạt hơn không chuyên ngành.
Ban A: Ban Khoa học thực nghiệm (giống như bên Phổ thông)
Ban B: Ban Toán học (- nt -)
Ban C: Ban Sinh ngữ (- nt -)
Ban D: Ban Cổ ngữ (- nt -)
Ban E: Ban Doanh Thương Tổng quát (môn học và thời lượng khác hẳn)
Ban F: Ban Công kỹ nghệ (- nt -)
Ban G: Ban Kinh tế gia đ́nh (- nt -)
Ban H: Ban Canh nông (môn học và thời lượng khác nhau)
Các môn học và thời lượng đều theo Chương tŕnh Tổng hợp mới được
soạn thảo và ban hành. Mỗi ban đều có môn học bắt buộc và nhiệm ư
(nhiệm ư là học sinh có thể học hai hoặc ba môn ḿnh thích hợp trong
số các môn trong chương tŕnh nhiệm ư)
Phương pháp hướng dẫn học sinh chọn ban:
Nhà trường có trách nhiệm thành lập ban Hướng dẫn tập hợp các bản
kiểm tra và trắc nghiệm (tài liệu tạm thời ứng dụng ngân hàng trắc
nghiệm của Viện Harris) được gởi tới hàng năm về:
1. Hai năm đầu (lớp 6, lớp 7) là hai năm Khám phá năng khiếu, tố
chất.
2. Hai năm tiếp (lớp 8, lớp 9) là hai năm từng bước Hướng dẫn chọn
lựa.
3. Ba năm sau (lớp 10,11,12) mới thực sự học Chuyên ban.
Phương pháp lượng giá: bằng các bài kiểm tra, tŕnh bày, nhất là
trắc nhiệm (7 phép). Ở Việt Nam lúc đó chưa có Viện chuyên soạn thảo
câu hỏi trắc nghiệm phục vụ đúng yêu cầu đánh giá nên c̣n cần phải
sử dụng tài liệu của nước ngoài v́ phương pháp lượng giá rất quan
trọng, nó vừa khách quan, vừa khoa học, chiếm tới 80 – 90% điều mà
ta muốn hỏi. Nếu không học và không đủ tŕnh độ kiến thức về nhiều
mặt, đủ thời gian và điều kiện kiểm tra, đánh giá, xếp loại độ khó
của câu trắc nghiệm th́ không thể sử dụng được.
1. Độ khó A: Chỉ 10% học sinh Giỏi làm được.
2. Độ khó B: từ 20% - 25% học sinh Khá làm được
3. Độ khó C: 40% học sinh Trung b́nh làm được
4. Độ khó D: 60% học sinh Trung b́nh làm được (câu hỏi dễ)
5. Độ khó E: 75% học sinh Trung b́nh làm được (câu hỏi quá dễ)
Các câu hỏi trắc nghiệm phải được đánh giá độ khó mới đem ra thực
hiện việc lượng giá, nếu không mục đích khó ḷng đạt được.
Vấn đề Lượng giá học sinh là một vấn đề khó khăn phức tạp không thể
tŕnh bày rơ ràng một lúc cho hết được. Xin hẹn một dịp khác, nếu có
yêu cầu.
Sự H́nh Thành và Cơ Cấu của Trường Tổng Hợp (TH)-
Dưới Mắt của một cựu học sinh
Khởi Đầu:
Trường Tổng Hợp QGNT (TH QGNT) được thành lập vào khoảng tháng 10
năm 1972 sau khi niên khóa 72-73 bắt đầu, với một lớp 8, hai lớp 7
và hai lớp 6. Tất cả học sinh muốn vào TH đều phải ghi danh thi và
đậu một cuộc thi trắc nghiệm được tổ chức năm đó bên trường Phổ
Thông. Số pḥng học có giới hạn, và chương tŕnh mới mẻ, phong phú
với sự bảo trợ của Đại học Ohio (Hoa Kỳ) nên số học sinh được tuyển
chọn qua TH rất ít trong năm đầu tiên. Những năm sau đó th́ cuộc thi
tuyển được tổ chức trong mùa hè, do các Thầy Cô trong trường TH làm
giám khảo và tuyển chọn trước ngày khai giảng. Ngoài phần thi trắc
nghiệm về những kiến thức thông thuờng và toán, trong cuộc thi tuyển
thí sinh c̣n phải viết một bài luận văn theo đề nhà trường đưa ra.
Tôi c̣n nhớ rơ là khi nghe trường TH cho học sinh ở lại trường vào
buổi trưa và được ăn cơm miễn phí trên khu nhà ăn nội trú, v́ chương
tŕnh học kéo dài đến chiều, tôi vui mừng không tả được. Một trong
những lư do khiến tôi nằng nặc đ̣i Má tôi rút hồ sơ sau lớp 6 trường
Lê văn Duyệt SG để xin vào học trường QGNT là v́ một hôm xem TV,
thấy phim thời sự nói về học sinh QGNT được ở nội trú, tôi mê quá,
v́ tưởng ai học QGNT cũng được ở lại trường! Tuy không được ở nội
trú v́ những lư do này nọ, tôi vẫn thuờng hay vào khu nội trú để hái
hoa cúc nhật màu tím thật đẹp, mọc đầy trước sân dưới lầu khu nội
trú nữ lúc ấy. Trường TH được thành lập ngay nơi "...tôi vẫn thuờng
mộng mơ, nên chép thành bài thơ..."*, này! Vậy th́ tuy không được ở
lại trường qua đêm, nhưng cũng được học, lang thang cả ngày ở một
nơi tôi từng ao ước được đặt chân đến, cũng là "hạnh phúc trần gian"
đối với tôi khi đó! Và tôi đă vô cùng may mắn khi được học ở ngôi
trường lư tưởng này từ năm lớp 7, năm 1972, cho đến khi mất nước,
1975.
Chương Tŕnh Học và Những Đặc Điểm :
Mỗi lớp học ở trường TH chỉ có độ hơn 20 học sinh theo mô h́nh
trường phổ thông hỗn hợp (comprehensive) bên Mỹ. Tôi c̣n nhớ khi
được sắp hàng nghiêm chỉnh chào cờ lần đầu, thầy Hiệu Trưởng là Thầy
Trần Ngọc Hồ đă nhắn nhủ tất cả chúng tôi là phải học hành chăm chỉ
để không phụ ḷng kỳ vọng của Thầy Cô, và nhất là sự hy sinh của Cha
và Mẹ chúng tôi. Thầy cũng chúc mừng chúng tôi đă đậu được cuộc thi
tuyển chọn vừa qua, và v́ thế phải triệt để tuân theo kỷ luật của
trường để xứng đáng được mang danh là học sinh trường TH.
Trường có pḥng thí nghiệm (lab) để chúng tôi có thể học các môn
khoa học thực nghiệm một cách sống động. Một điều đặc biệt cho học
sinh TH nữa là trường có pḥng thính thị để học ngoại ngữ. Đây là
nơi mà lần đầu tiên tôi được thấy máy casette với cái ống nghe để
học những bài nói, rồi trả lời, hay lập lại những câu tiếng Anh. Mỗi
học sinh đều có bàn riêng để nghe máy, nên lớp học đàm thoại ngoại
ngữ rất sống động và học sinh dễ dàng lĩnh hội kiến thức...
Chương tŕnh học của trường TH gồm những môn học được giảng dạy
trong các trường phổ thông vào buổi sáng, và những lớp như thể thao,
hội họa, âm nhạc, và nghề thực dụng vào buổi chiều, sau khi ăn cơm
trưa và nghỉ ngơi trong pḥng ăn khu nội trú. Xin được nói sơ về
chương tŕnh "nghề" của trường TH sau đây:
Nam sinh được chọn 2 trong ba chương tŕnh dạy "nghề": Công Kỹ Nghệ,
Doanh Thuơng hay Canh Nông. Nữ sinh được chọn 2 trong ba chương
tŕnh học nghề: Kinh Tế Gia đ́nh, Doanh Thuơng và Canh Nông. Hầu như
nam sinh nào cũng chọn Công kỹ nghệ, và hai lớp c̣n lại th́ số nam
sinh thuờng chia đôi ra theo sở thích cá nhân.
Bên nữ sinh th́ tất cả đều học Kinh Tế Gia Đ́nh, và đa số chọn thêm
lớp Doanh Thuơng. Tôi và Vũ thị Huyền là hai nữ sinh duy nhất trong
lớp Canh Nông lớp 7 với số học sinh chỉ độ mười người trong năm đầu.
Chương tŕnh lớp Canh Nông lớp bảy gồm những kiến thứ căn bản về hóa
học của đất đai, nước, môi sinh và những yếu tố cần thiết trong việc
canh nông...Trong phần thực tập Canh Nông năm đó, chúng tôi được
trồng bắp, cà chua. Lúc "làm vườn" nữ sinh không mặc áo dài, mà phải
thay áo ngắn. Để cho giống "dân quê", tôi đă "xí xọn" khẩn khoản Má
tôi may cho cái áo bà ba màu đen để mặc khi thực tập dù màu đen bắt
nhiệt, thực tập trong nắng chói chang nóng ơi là nóng! Thực t́nh tôi
mê lớp này hơn cả môn Kinh Tế Gia Đ́nh. Viễn ảnh một ngày nào đó,
những kiến thức tôi có được sẽ làm cho đồng ruộng và cả những vùng
sỏi đá khô cằn, những nơi bị bom đạn chiến tranh tàn phá được khai
khẩn và làm cho mầu mỡ lại nhờ khoa học và những phát minh về Canh
Nông đă đeo đẳng, thôi thúc tôi thật lâu...Chỉ tiếc là năm sau đó,
v́ chỉ c̣n một ḿnh tôi ghi danh học Canh Nông, lớp 8 đă không có
môn Canh Nông niên khóa 73-74, và tôi đă bị "ép" vào lớp Doanh
Thuơng.
Trong lớp Doanh Thuơng, học sinh được học đánh máy, kế toán, cách
viết thư gửi đi trong những công sở thuờng ngày...Đa số các bạn đều
có vẻ thích thú với lớp học này.
Lớp "nghề" cho nữ sinh mà ai cũng thích là môn Kinh Tế Gia Đ́nh v́
lư do dễ hiểu ... Ngoài làm bánh, nấu ăn, may vá thêu thùa, chúng
tôi c̣n học về cách thức xếp bàn ăn, bày biện, trang hoàng, và tính
toán dựa theo số ngụi để làm một buổi tiệc, kiểu VN và kiểu Tây!
Cách thức chào hỏi xă giao, lịch sự thông thuờng trong đời cũng được
giảng dạy trong lớp này. Phải nói nhờ lớp học này mà khi qua Mỹ, tôi
đă có thể kiếm thêm tiền khá dễ dàng để phụ gia đ́nh lúc c̣n đi học
(tôi làm bánh đám cưới, sinh nhật và may áo dài cho đồng huơng trong
cộng đồng tỵ nạn). Mỗi lần làm bánh hay may vá, tôi luôn nhớ với
ḷng biết ơn sâu xa đến quư Cô đă hết ḷng dạy cho chúng tôi cách
làm bánh thật ngon, thật đẹp, và nhất là biết cắt may để có thể mưu
sinh sau này dễ dàng hơn, trong mọi hoàn cảnh khó khăn...
Phía nam sinh th́ chương tŕnh học công kỹ nghệ có lẽ không khác mấy
với trường Kỹ Thuật. Các bạn được học vẽ họa đồ, làm thợ mộc, g̣ hàn,
cơ khí, điện, máy công cụ...
Niên khóa 74-75 là năm đầu tiên các học sinh lớp 10 được chọn ngành
để sau khi ra trường với bằng trung học từ trường TH sẽ có thêm
chúng chỉ về một nghề nào đó. Rất tiếc là v́ biến cố 75, trường đă
vĩnh viễn đóng cửa, và không có một học sinh nào được cái vinh dự ra
trường như dự kiến...
Kỷ Luật/Sinh Hoạt Thuờng ngày:
Về đồng phục th́ nữ sinh mặc áo dài trắng, nam sinh mặc quần xanh ,
áo trắng, và để phân biệt với học sinh của trường PT, ng̣ai phù hiệu
trường QGNT được may lên áo, chúng tôi phải mang một bảng tên màu
bằng plastic, có kim gài trên áo. Cái bảng tên này do gia đ́nh của
mỗi học sinh tự lo liệu, đặt làm theo khuôn khổ và màu sắc được đưa
ra bởi trường. Trên bảng tên có hàng chữ nhỏ ghi tên trường, và tên
của học sinh (chữ lớn hơn), đều màu trắng. Mỗi cấp lớp có một nền
màu bảng tên khác nhau (ví dụ như màu vàng cho lớp 6, màu đỏ cho lớp
7, v.v..). V́ trường mới, nhỏ, và tương đối quá lư tưởng, nên dù kỷ
luật khá khe khắt, chúng tôi đều cảm thấy hănh diện làm học sinh TH.
Thầy cô cũng thuờng xuyên nhắc nhở là chúng tôi được chọn lọc vào
một chương tŕnh học phong phú, phát triển mọi năng khiếu tiềm ẩn
trong mỗi chúng tôi, tương lai có lẽ được "bảo đảm" hơn, nên rất
hiếm khi có những vi phạm kỷ luật bởi học sinh TH trong 3 năm trường
mở cửa...
Ngoài khung cảnh thơ mộng, lớp học của trường TH có bàn ghế mới
toanh, pḥng học sạch sẽ, sáng sủa. Lớp ít học sinh nên thầy cô có
thể để ư theo dơi chúng tôi rất kỹ. Thầy Hồ, hiệu trưởng trường, với
dáng vẻ ung dung, uy nghi lẫm liệt, "đi tuần" thuờng xuyên, nên việc
học hành của học sinh TH có thể nói là ở trong một môi trường vô
cùng lư tưởng...Trường được bảo trợ bởi đại học Ohio nên thỉnh
thoảng chúng tôi cũng có những nhân viên từ trường ấy qua thăm viếng
để xem xét mọi tiến triển, thành quả của học sinh trong trường.
V́ học cả ngày nên chúng tôi được ăn cơm trưa ở trường cùng pḥng ăn
với học sinh ở nội trú. Sau lớp học buổi sáng, quư Thầy Cô giám thị
dắt chúng tôi đi ăn và nghỉ trưa ngay bên pḥng ăn của khu nội trú.
Những bữa ăn đều có đầy đủ thức ăn thật ngon lành, bổ dưỡng. Thế
nhưng thỉnh thoảng tôi cũng theo Dịu Hiền, ngụi bạn thấn thiết nhất
của tôi trong những năm bên TH, ra ăn cơm trưa với Mẹ Hiền là Cô
Mộng Điềm, ở thư viện.
Sinh Hoạt Hiệu Đoàn:
Trường TH cũng có một đội banh, một ban hợp xướng do Thầy Phạm Nghệ
huớng dẫn, điều khiển. Mỗi năm để chuẩn bị cho Tết, chúng tôi có
cuộc thi đua làm bích báo, văn nghệ Tất Niên, và khi có báo Xuân,
chúng tôi "được" đi bán báo! Đi bán báo là một trong những "công tác"
để lại cho tôi nhiều kỷ niệm thiết tha nhất với Thầy Cô và các bạn ở
trường TH.... Niên khóa 72-73 chúng tôi không có ra báo Xuân, nhưng
năm sau, NK 73-74, chúng tôi có ra tờ báo Xuân 1974 riêng biệt của
trường. Năm 74-75 th́ có lẽ v́ ngân quỹ ít, chúng tôi đă làm Đặc San
Xuân chung với trường Kỹ Thuật. V́ trường ít học sinh, chúng tôi
thuờng xuyên có những buổi du ngoạn toàn trường thật vui và ấm cúng.
Tất cả Thầy Cô của trường luôn tháp tùng chúng tôi trong những dịp
du ngoạn ngoài trời này, và khi hè đến th́ chúng tôi cũng được tham
dự trại hè với các anh chị trường PT và KT ở trường Thiếu Sinh Quân.
Hè 73, cùng với 5 anh bên trường PT và KT, tôi được "đại diện"
trường TH để tham dự trại hè toàn quốc ở Nha Trang với các trường
trung học Sài G̣n như Chu Văn An, Trưng Vương, v.v.. Đây là lần đầu
tiên tôi xa nhà cả tuần lễ, nhưng thật t́nh, được tung tăng cả ngày
trên một thành phố biển hiền ḥa thơ mộng với cảnh lạ, bạn mới, và
nhất là được mấy anh bên PT và KT cưng ch́u, tôi đă không nhớ nhà
mấy và đă cảm nhận cái t́nh QGNT hơn lúc nào hết.
Ban Đại Diện trường TH cũng được họp thuờng xuyên với thầy Hồ, thầy
Quảng, để được quư Thầy huớng dẫn, khuyên nhủ trong những công việc,
sinh hoạt chung. Năm 74-75, làm trưởng ban Báo Chí, và tuy cũng
thuộc loại học sinh chăm chỉ, ham học, nhưng thực t́nh mỗi lần được
giấy gọi đi họp, ḷng tôi lại lâng lâng vui sướng v́ trong cái trí
óc đơn giản của tôi lúc ấy, tôi đă được quư Thầy Cô tin và được xem
là "ngụi lớn"! Khi không khí Sài G̣n bắt đầu căng thẳng với những
tin trên TV về các cuộc thảm sát dân lành, trẻ em bởi Cộng Sản được
biết đến, chúng tôi cũng nô nức muốn xuống đường biểu t́nh, như một
số những học sinh, sinh viên thời ấy. Đó là lần đầu, và cũng là lần
duy nhất BDD chúng tôi đưa lên lời thỉnh nguyện, xin phép cho chúng
tôi được đi biểu t́nh "Đả đảo CS" với các anh chị! Thầy Hồ đă gạt
phắt ngay v́ cho chúng tôi là "con nít", làm sao biết được chuyện ǵ
sẽ xảy ra khi đi biểu t́nh. Lúc ấy , trưởng BDD là Nguyễn Thành Lâm,
lớp 10, tức lắm, mặt đỏ lên, sau buổi họp rồi vẫn ấm ức măi, nên tôi
đă phải khuyên Lâm là: "Đây là v́ thầy thuơng và lo cho tụi ḿnh,
nên mới không cho phép đó thôi". Hồi tưởng lại, ḷng không khỏi ngậm
ngùi tiếc thuơng cho tất cả chúng tôi, cho khoảng đời đầy ước mơ, lư
tưởng bên nhiều tai ương nghiệt ngă...
Những kỷ niệm êm đềm với cảm giác được ân cần săn sóc ở trường đă
đeo đẳng măi trong tâm trí khiến ḷng tôi luôn bồi hồi xúc cảm, ray
rứt không nguôi mỗi khi nhớ đến...Bao nhiêu năm rồi nhưng những ngày
c̣n được cắp sách đến trường THQGNT là những ngày tôi cảm thấy đời
sống có mục đích, lư tưởng nhất trong tất cả 16 năm được sinh ra lớn
lên trên đất nước VN.
Xin chân thành, trân trọng cảm ơn tất cả quư Thầy Cô, và những ân
nhân của trường đă cho chúng con một môi trường giáo dục chứa chan
niềm ưu ái, nơi chúng con được may mắn hết sức khi thu nhặt, lĩnh
hội kiến thức và rèn luyện nhân cách, kết đọng những chân t́nh trong
sáng khó phai với quê huơng, thầy cô và bè bạn...
Vơ thị Minh Phượng
Tháng tư, 2013
*: trích từ lời của bản nhạc "Lan và Điệp"
Trường Trung Học KỹThuật QGNT
Giáo sư Đỗ Trọng
Hòa
Trường Trung học Kỹ
thuật QGNT đựơc ra đời bởi nghị định số : 0615/QP/ND ngáy 30 tháng 11 năm 1965.
Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 vừa được 9 tuổi rưỡi, Vời BA VỊ HIỆU TRƯỞNG
như sau :
* Thày Nguyễn Hữu Thông (1965-1969). Từ 1969 đổi về làm Trửơng khoa Tóan Trừơng
Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
* Thày Phan Văn Cự (1969-1970). Hiện đang ở San Jose, California USA
* Thày Đặng Trần Dư ( 1970-1975).Hiện ở San Jose, California, USA
CÁC VỊ GIÁM
HỌC :
*Thày Huỳnh Hữu Tâm ( Thuyên chuyển đi nơi khác năm
1971)
*Thày Đỗ Đại Thanh Vân
CÁC VỊ TỔNG
GIÁM XƯỞNG :
*Thày Bùi Văn Đắc
*Thày Trần Khắc Lượng ( Thế Thày Bùi Văn Đắc)- Thày Lượng đang ở tai Pháp Quốc
CÁC VỊ HIỆU
ĐOÀN TRƯỞNG :
* Thày Huỳnh Thanh Hải ( Sau về Xưởng Kỹ Nghệ Họa)
* Thày Huỳnh Sơn Cương
CÁC VỊ TỔNG
GÍAM THỊ :
*Thày Huỳnh Văn Lâụ
* Thày Bùi Văn Đắc ( Thay thế Thày Huỳnh Văn Lâu trở về xưởng)
CÁC VỊ GIÁM THỊ :
* Thày . . Liêm - Cô Nguyễn Thị Liêm ( Cô Liêm đang ở Osaka-Japan)
CÁC VỊ NHÂN VIÊN
VĂN PH̉NG:
* Ông Nguyễn Văn Thành.
* Ông. . . Đường
* Cô . . Ánh
* Ông . . . & Ông. . .
Trừơng đựơc xây cất trên một diên tích gần 30.000 mét vuông, với một dăy nhà
trệt ,kiến trúc theo lối học xửơng, theo kế hoạch dự trù, các pḥng học sẽ được
xăy că't thêm về sau.Ta.m thời để đáp ứng cho nhu cầu cấp bách buổi đầu, trường
được chia thành 5 học xưởng và 8 pḥng học. Về máy móc trang bị , lúc đầu do các
cơ quan Hoa Kỳ chuyển nhượng đươ,c một số ít máy móc chia đều cho các học xưởng.
Về sau, do ngân sách tự trị của Viẽ.n Giáo dục QGNT Trường được trang bị dần
thêm các loại máy móc , dụng cụ va bàn ghếv. v. . . Riêng xưởng điệ tử vào năm
1970 đă nhận được sự viện trợ của Chính Phủ Ư Đại Lợi , gồm các máy móc ,dụng cụ
tối tăn , cộng thêm các tài liẽ. hướng dẫn giảng dậy thật phong phú. Ngoài ra
học xưởng Điện tử c̣n đươc tân trang với bàn ghế hoàn toàn mới có máy điều ḥa
không khí nữa.
Trường KT-QGNT trực thuộc Viện Giáo dục Quốc Gia Nghĩa Tử (Bộ Cưụ Chiến Binh) về
hành chính và tài chính , nhưng về chuyên môn Trường lại lệ thuộc Nha Kỹ Thuật
và Chuyẽn Nghiẽ.p Học Vụ ( Bộ Giáo Dục). Ngay trong niên khóa đầu tiên trường đă
mở được 2 lớp chính thức theo đúng học tŕnh của Nha Kỹ Thuật va Chuyên Nghiệp
Học Vu.. Bên cạnh đó trường c̣n mở thêm các lớp huấn nghệ đoản kỳ, để giúp đỡ
các học sinh QGNT muốn sớm có một nghề mưu sinh. Qua qúa tŕnh đào tạo, trường
đă cấp bằng tốt nghiệp cho hon 300 học sinh tốt nghiệp các lớp Đoản kỳ bao gồm
các ngành như : Cơ khí ô tô - Kỹ nghệ họa - May cắt - Kỹ nghệ gỗ - Kỹ nghệ săt -
Điện nhà và Điên tử.
Các học sinh chính thức của trường tới năm 1975 gồm Ban Kỹ Thuật Toán và các Ban
Chuyên nghiệp khác , từ lớp 9 tới lớp 12 tổng cộng trên 300 học sinh theo học.
Sau ba mươi mốt năm biến động, tang thương dâu bể, vật đổi sao dời, trí nhớ chỉ
c̣n nhớ đươc. một số các chi tiết trên , xin ghi vội ra đây ,hy vọng giúp' các
"cựu học sinh KT-QGNT" năm xưa hồi tưởng laị chút ân t́nh" thày tṛ cũ" hay ít
"kỷ niệm xưa"với ngôi Trường KT-QGNT dấu yêụ Có ǵ sai sót, mong các em bổ túc
thêm và bỏ qua cho nhe!-năm nay vừa sáu mươi rồi- Tiện đây tôi cũng xin bầy tỏ
ḷng cám ơn và sư cảm động vô cùng trước sự tiếp đón nồng hậu của các Bạn hữu
cũng như của các cựu học sinh KT-QGNT đădành cho tôi trong chuyến "hạnh ngộ "
tai California vừa quạ Những t́nh cảm cũng như những kỷ niệm đẹp đó , tôi sẽ
trân qúy và mang theo maĩ suốt quăng đờị c̣n laị
- Đỗ Trọng Ḥa - Tokyo - Japan -
DANH SÁCH CÁC
THÀY- CÔ CÁC BỘ
MÔN KỸ THUẬT VÀ VĂN HÓA
* Xưởng Kỹ nghệ Gỗ:
Thày Nguyễn Ngọc
Anh.
* Xưởng Kỹ nghệ Sắt :
Thày Nguyễn Thế
Thọ -
Thày Nguyễn Cao
Mỹ.(Thày Mỹ ở USA)-
Thày Vương Thành
Phát
* Xưởng Điện Nhà:
Thày Phạm Van Ḥa
( Sau thuyên
chuyển về Công Ty điện lực )
Thày Hồ Văn Thành
* Xưởng Cơ Khí Ô Tô :
Thày Hồ Văn Miêng
( Sau thuyên chuyển về Công Ty điện lực )
Thày Vơ Phú Cường
Thày Trịnh Văn Thông
* Xưởng Nữ Công Gia Chánh - Kinh Tế Gia
Đình
Cơ Triệu Thị Chơi
Cô Nguyễn Thi Xưng Huê
Cô Trầm thi Tuyết.
* Xưởng Điện Tử :
Thày Phan Tấn
Chữ.(Tạ thế năm 1978)
Thày Đỗ Trọng Ḥa
* Xưởng Kỹ Nghệ Họa : Thày Huỳnh Thanh Hải
Thày Nguyễn Khoan Hồng (Đang ở SEATLE-USA).
Thày Đỗ Đại Thanh Vân
DANH SÁCH CÁC
THÀY CÔ CÁC BỘ MÔN VĂN HÓA :
*Sử Địa Cơng dân :
Thày Ngô Đức Hải
(San Jose- USA)
Thày Nguyễn Khoan Hồng
*Anh Văn
Cô Đỗ Thị Phụng
Thầy Phạm Trọng Phu
Đỗ Thị Kim Châu
*Việt Văn
Thày Bùi Dă
*Tóan
Thày Nguyễn Thành Vân
Thày Nguyễn Văn Sự
Thày Nguyễn Phúc Thọ
Thày Nguyễn Văn Định
Thày Nguyễn Chí Thông
*Lư Hóa
Thày Trần Khắc Lượng (Pháp)
Thày Nguyễn Văn Hồng
Cô Nguyễn Thị Ḥa
*Triết
Thày Nguyễn Lộc Thọ
*Pháp Văn
Thày Ninh Thế Việt
Trường QGNT Huế
Trường QGNT Huế cũng như các trường QGNT
khác, đều trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh, Viện Giáo Dục Quốc Gia Nghĩa Tử
SaiGon.
Lúc bấy giờ là năm 1967.
Bộ Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh:
Bác Sĩ Nguyễn tấn Hồng
Đổng Lư Văn Pḥng:
Đai Tá Phạm Gia Cầu
Viện Truởng Viện Giáo Duc QGNT:
Y Sĩ Trung Tá Truơng Khuê Quan
Phụ Tá Viện Truởng:
Thiếu Tá Bùi Trọng Chi
Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Huế toa lạc
tai"Ngă Tư Anh Danh Thành Nội Huế".Cổng chính của trường ở trên đuờng
Đinh Bộ Lĩnh, hiên nay đổi tên thành Đinh Công Tráng,đuờng này đi thẳng
ra cửa Thượng Tứ.
Mặt trường nh́n ra đường Bộ Thị,nay đổi là đường Nguyễn Hiệu. Sau lưng
trường là đường Mai Thúc Loan,đường này đi thẳng ra cửa Đông Ba. Hông
trường giáp Viên Dục Anh.
Năm 1953, đây là khuôn viên trường Thiếu
Sinh Quân,sau đó trường Thiếu Sinh Quân dời vào Vũng Tàu. Khuôn Viên này
đươc giao cho Đơn vi mũ đỏ Hiến Binh.Sau khi Hiến Binh giải thể, lai
được giao cho đơn vi mũ đen Quân Cảnh.
Đơn Vị Quân Cảnh dùng làm văn pḥng và làm Trại gia binh.Tháng
7/1967,khuôn viên này được Quân Cảnh giao cho Bộ Cựu Chiến Binh,để thành
lập truờng Quốc Gia Nghĩa Tử Huế. Bộ Cựu Chiến Binh lệnh cho Ty Cựu
Chiến Binh ở Huế cho tu sửa, chỉnh trang pḥng ốc các lớp đồng thời thu
nhân hoc sinh. Anh Châu Văn Kham,(hiện nay đang sinh sống ở Vũng
Tàu),thuôc Ty Cựu Chiến Binh Huế là nguời có công trưc tiếp, cấp tốc
chỉnh trang trường ốc.
Tháng 8/1967,Y Sĩ Viện Truởng Truơng Khuê
Quan bận công du nước ngoài,Thiếu tá Bùi Trọng Chi,Phụ Tá Viện
Trưởng, lệnh cho tôi,
Giáo Sư trường QGNT Sài G̣n về làm Hiệu Truởng
Trường QGNT Huế, trước mắt là lo t́m mời Giáo Sư và sắp xếp sĩ số học
sinh cho các lớp để kịp khai giảng niên khoá đầu tiên (1967-1968) cùng
với mùa khai trường các trường trung học Công Lập ở Huế.
Tháng 9/1967 trường QGNT Huế đă chính thức khai giảng niên khoá dầu tiên,
cắt băng khánh thành trường là Thiếu Tuớng Hoàng Xuân Lăm, Tư Lệnh Vùng
I Chiến Thuật và Đai tá Lê Văn Thân, Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên.
Sĩ Số
hoc sinh ngày khai trường là 100 em, về sau sĩ số tăng lên 400 em.
Tháng 1/1968, trường được bàn giao cho Hiệu Truởng mới là Giáo Sư Hoàng
Hữu Tiếu, nguyên là Chánh Thanh Tra Trung Học thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục,
được biệt phái sang Bộ Cựu Chiến Binh.
Trong biến cố Tết Mậu Thân(1968), trường hư nát quá nặng nề, sau trường
được xây dựng lại toàn bộ, xây dưng thêm Khu Nội Trú và thu nhận 50 Em
vào Nôi Trú Sinh.
Sau đây là danh sách nhân viên đă phục vụ cho trường QGNT Huế, mà tôi
được biết (có thể c̣n nhiều Thầy Cô và nhân viên nhà truờng tôi không
biết hoặc không nhớ)
Hiệu Trưởng:
Phan Văn Cự:(San Jose)
Hoàng Hữu Tiếu:(Passed away Lục Tỉnh)
Bửu Đôn:( Huế, Sài G̣n)
Nữ Giáo Sư:
Nguyễn Khoa Diệu Tùy(Sài G̣n):Anh-Pháp
Văn
Phan Thị Thu Vân:Quốc Văn
Phan Thi Thanh Tâm(Bác Sĩ Texas)
Truơng Thi Đạm Tuyết(Sanjose)
Phan Thi Nhật Lệ(USA)
Truơng Thị Lai:Quốc Văn
Huỳnh Thị Trung:Vạn vật
Nguyễn Thi Lệ Hằng:Thể Dục
Cô Nghê:Sử Địa
Nam Giáo Sư:
Nguyễn Thắng Thưởng(Huế):Hội Họa
Nguyễn Hứa Hàm:Thể Dục
Tạ Ngọc Minh:Anh văn
Lâm Quốc Tuyên(Huế):Quốc Văn
Hoàng Mạnh Quân:Sử Địa
Đinh Tấn Hùng:Toán-Lư Hoá
Phạm Mạc Trường Ly Phương:Nhạc
Đăng Công Toạị:Quốc Văn
Thầy Quế:Toán-Lư Hoá
Thầy Quân:Công Dân
Giám Thi & Nhân Viên:
Nguyễn Văn Huyền:Tổng Giám Thị- Huế
Nguyễn Mê:Phu Tá Giám Thị Nội Trú
Nguyễn Thu:Giám Thị
Bác Tháo:Cai Trường
Bà Thệ:Lao Công
Tổng kết,trường Quốc Gia Nghĩa Tử Huế vừa
thành lập và hoạt động được khoảng 8 năm cho đến ngày 26/3/75 th́ trường
đă bị mất cùng với sự bỏ ngỏ Huế.
Măi cho đến sau Đai hôi QGNT/92 vừa qua khi gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử
Việt Nam được thành lập tại Hoa Kỳ, th́ Anh Chi Em Quốc Gia Nghĩa Tử Huế
mới bắt đầu ngồi lại với nhau chia sẻ những "đắng cay, ngọt bùi" mà cuộc
đời đă chất chồng đè lên thân phận của chúng ta.
Chúng ta Cầu Chúc toàn thể các Anh Chị Em QGNT Huế luôn gặp nhiều may
mắn hơn trong tương lai!
Giáo Sư Phan Văn Cự
Vị hiệu trưởng
QGNT Huế và học sinh QGNT Saigon và Huế
TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ
ĐẰ NẴNG : 1967 - 1975
Cô
Nga và cô Hiếu trước trường QGNT Đà Nẵng
Thày Nguyễn Khuê nhận
công vụ từ Viện trưởng viện Giáo dục QGNT Saigon tổ chức một trường trung học
QGNT tại Đà nẵng năm 1967.
Trường Q Đà nẵng được tồ chức ngay trong Ty Cựu chiến binh tại đường Hùng Vương
thị xă Đà nẵng .. Cơ sở ban đầu sữ dụng tạm 2 dăy nhà ; 1 mái ngói , 1 mái tole
, tường vôi cũ kỷ với 4 pḥng sữ dụng làm lớp học . Văn pḥng ban Giám hiệu dặt
nhờ trong văn pḥng của Ty CCB .
Trường QGNT Đà nẵng khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 9 - 1967 .
Niên khóa 1967 – 1968: là khóa 1 , với 2 lớp 6 : Nam , Nữ với sĩ số 100 HS .Mỗi
năm tăng dần lên 2 lớp .
* 8 năm hoạt động có 7 khóa học : K1 , K2 ,K3 ,K4 , K5 , K6, K7 với khoảng
700 HS .
Hiệu trưởng đầu tiên là Thày NGUYỄN ÍCH XUÂN , Thư kư Thày TRẦN NGỌC XUẤT , bác
cai trường Đặng Lỡ . Trường chỉ có 2 giáo sư phụ trách tất cả các môn học cho 2
lớp 6 Nam sinh và Nữ sinh
Thày HOÀNG TRỌNG NỒNG ,
Cô TRINH THỊ NGỌC BÍCH .
Năm học 1968 – 1969 : Hiệu truong là thày NGUYỄN HOA.( thay thày Nguyễn Ích Xuân
).Niên khóa đầu tiên chưa có đũ nhân sự để thành lập ban Giám hiệu .
Giáo sư có thêm cô
TRẦN THỊ MAI HOA : Lư hóa
thày NGUYỄN VĂN NGỌC : Việt văn
Cô BÙI THỊ PHƯƠNG LAN : Sữ - Địa
Thày VĨNH DIỆN : Nhạc
Cô HOÀNG THỊ YẾN : Vẽ
Trường tuyễn thêm 2 lớp 6 : K 2 = 100 HS .
Năm học 1969 – 1970 : Trường them 2 lớp 6 K 3
Giáo sư đă có thêm thày HUỲNH SƠN CƯƠNG : Toán .
Thày NGUYỄN NHUNG ĐÍCH : Anh văn .
Năm học 1970 – 1971 : K 1 đă lên lớp 9 , trường tiếp tục tuyễn them 2 lớp 6 : K4
.
Tổng số học sinh bây giờ 400 .
Thày TRỊNH ĐƯƠNG : Toán ,
Thày PHAN Đ̀NH ÁNH :
Anh văn .
Năm học 1971 – 1972 : Truong mới khánh thành tại đường Hùng vuong .Trung tâm thị
xă DN Trường trung học đệ nhị cấp QGNT – Đà nẵng dẹp khang trang với tổng số học
sinh lúc đó là 500 HS gồm : 2 lớp 6 , 2 lớp 7 , 2 lớp 8 .2 lớp 9 , 2 lớp 10 .( K
1 là hoc sinh . 2 lớp 10 đầu tiên của trường Q Đà nẵng , lớp 10 A và lớp 10 B là
khóa đàn anh của DN tuong duong Q 74 SG ).-
Hiệu trưởng là thày TÔN THẤT DƯƠNG KỲ .Giáo sư Pháp văn từ trường Phan Châu
Trinh chuyễn về .Giám học là thày Phạm Sỹ Tấn . Hiệu đoàn trưỡng kiêm Tổng giám
thị : thày Hoàng Trọng Nồng .
Năm học 1972- 1973 : Trường tuyễn thêm 2 lớp 6 .K5 : Tổng số HS là 600 .
Thày cô đă tăng thêm :
Cô TẠ ĐẠO HUỆ : Anh văn
Cô LÊ THỊ MINH TÂM : Việt văn
Cô LÂM THÚY HẬU : Anh văn
Cô NGUYỄN THỊ HẠNH : Sữ - Địa
Cô NGUYỄN THỊ ÁI : Vạn vật ( nhà văn Thùy An )
Niên khóa 1973 – 1974 : K 6 với 100 hs cho 2 lớp 6 Nam và nữ sinh
Niên khóa 1974 – 1975 : K 7 tiếp tục h́nh thành . Tổng số học sinh là 700
.
27/12/2012.
Anh Anh –Q 74
Trường QGNT Biên Hoà
Bà Phan thị Dần, là chị cả của giáo sư
Phan văn Cự,
trước Tết Mậu thân 68 là hiệu trưởng trường Nam Ngọc ở Huế. Sau
biến cố Mậu thân bà được bác sỹ Viện
trưởng Viện Giáo Dục QGNT can thiệp với bộ giáo dục
đưa bà về làm hiệu trưởng trường QGNT tại Tân Vạn Biên
hoà từ lúc mới thành lập cho tới năm
1975.
Bà cựu
hiệu trưởng nay đã trên 90 tuổi và đang sinh sống tại Saigon
và con là Tôn Nữ Diệu Nguyện, là cựu học sinh trường
QGNT Tổng Hợp.
........Niên khóa 1971-1972, gia đình tôi ở Mỹ Tho,
biết tin có trường QGNT Biên Hoà, cấp tiểu học, ở ngã ba Tân
Vạn,
cạnh xa lộ Biên Hoà nhận nội trú, nên mẹ tôi có cho cậu em trai thứ
sáu, sinh năm 1962 học lớp ba ở đây. Cuối tuần có gia đình người cậu
họ ở Thị Nghè, cũng là bố nuôi của chị Thanh Thủy Q72 đón về.
Tôi cũng có ra khu nội trú đón cậu em trai
này. Trong trí nhớ còn sót, trường là hai dãy nhà tôn thấp gồm
phoìng học và dãy song song là phòng ngủ và sinh hoạt khác.
Trường Biên hòa chỉ có đến lớp ba là hết,
nên cậu em này chỉ học có một năm lại về Mỹ Tho.
Trường không lớn lắm
và tiện nghi cũng không bằng trường QGNT ở Saigon.
Do học sinh cấp một còn nhỏ tuổi nên rất
ít Mẹ nào cho con đi xa.
Hy vọng ACE nào có biết thêm để làm Kỷ
Yếu 50 Năm đầy đủ, để biết rằng chính phủ rất quan tâm chăm sóc cho
những người con có hoàn cảnh mồ côi như chúng ta.
Đỗ Hoa 73
TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ CẦN THƠ : 1973- 1975
Khai giảng niên khóa đầu tiên 1973 – 1974 . với 4 lớp : 6 . 7 . 8 .
9 .
Trường vẫn c̣n đang xây dựng dỡ dang tại dc 19 Lộ 20 tỉnh Cần thơ Nay là số 19 đường CMT8 ,F An thới , quận B́nh thủy – thành phố Cần
thơ .
Đại diện Viện GDQNGT - Quân khu 4 : Dại úy Nguyễn Thị Hiếu
Hiệu trưởng : Lê Phú Đức – Sĩ quan biệt phái
Hiệu đoàn trưởng kiêm Giám thị : Lê Quang Mỹ Ngọc –cựu HS BDD niên
khóa 70 – 71 QGNT – SG
Thư kư : Nguyễn thị Vân : Quả phụ tử sĩ
Giáo sư từ trường Văn Hóa Quân đội được điều sang dạy 4 lop : 6.7. 8
,9 .
Đầu năm 1975 , trường vừa xây dựng hoàn thành tổng thể gôm 3 dảy lầu
với các pḥng học . khu nội trú , khu văn pḥng . Sân vận động sinh
hoạt thể thao .Chỉ mới hoạt động năm học đầu tiên nhưng Lê Quang Mỹ
Ngọc cũng đă thành lập được một đội văn nghệ , một dội cầu lông ,
một đội bóng bàn non . trẻ , cho sinh hoạt hiệu doàn trường QGNT
Cần thơ .
Buổi đầu số học sinh c̣n quá ít nên Nam nữ chung lớp .Lớp 6
đông nhất khoảng 20 em , lớp 9 chỉ có khoảng 10 em v..v..Tổng số học
sinh của 4 cấp lớp học 6,7,8,9 khoảng 70 em.
Dự định niên khóa 1974- 1975 sẽ nâng lên trường cấp
3.
Sau tháng 4/1975 - Trường Q GNT Cần thơ đă đổi tên thành trường Lư
Tự Trọng khu Tây Nam bộ.
Hiện nay là trường Trung học phổ thông chuyên Lư Tự Trọng,
thành
phố Cần thơ .
01/2013.
A 2 -74.
Các
Ban Đại diện Học Sinh
Trung học QGNT Sàigon.
Ban Đại Diện Niên Khóa
1968-1969
Đại Diện Nam :
Nguyễn văn Khanh 1A
Phó: Mai An Toàn 2B2
Đại Diện Nữ:
Nguyễn Thị Chai 1A
Phó: Chung Yến Nhi 1A
Ban Trật Tự Khánh Tiết:
Nguyễn Văn Nghiệp 2B2
Nguyễn Thị Nhuận 1A
Ban Học Tập Báo Chí :
Phan Nhật Tân 2A2
Nguyễn Thị Ngự 1A
Ban Xă Hội:
Phạm Văn Bộ 1B
Trần Ngọc Minh Châu 2B2
Ban Văn Nghệ:
Mai Đức Phú 1A
Ban Thể Thao:
Tăng A Nh́ 2B2
Phạm thị Lư 1A
Niên Khóa
1969-1970:
Phạm ngọc Trường Q71 - Nguyễn
thị Lan Q70
Trần đức Nghiă Q71 - Vơ thị
Trinh Q70
Trần Ngọc Lâm Q70 - Lê thị bạchTuyết Q70
Thái văn Hoàng Q70 - Nguyễn thị Thuật Q71
Đinh văn Thám Q71 - Kiều thị Sơn Q71
Nguyễn văn Nghi Q71 - Nguyễn ( hay Trần )
thị ngọc Châu Q72
Nguyễn văn Tuynh Q71 - Ngô ngọc Dung Q71
Nguyễn anh Dũng Q71 - Nguyễn thị Lệ Q71
.....................Phương Q71
*** c̣n thiếu khoảng 3 người v́ Ban Đại
diện gồm có Ban Văn nghệ , Học tập , Xă hội , Sinh hoạt
học đường . Mỗi ban gồm 2 nam và 2 nữ
Niên Khóa
1970-1971:
Đại diện Nam Sinh:
Dam van Tuan 12B1
Nguyen Thang Long 12B1
Đại diện Nữ Sinh:
Le Quang My Ngoc 11B2
Le Thi Thuy Tien 11A2
Tong Thu Ky :
Tran Duc Nghia 12A2
Nguyen Ngoc Yen 12A1
Khoi Hoc Tap :
Phan Si Tuan 12B1
Nguyen Minh Phuong 12A1
Khoi Trat Tu :
Nguyen Trung Thuoc 12B1
Dao thi Luong 11A2
Khoi The Thao :
Bui Thai Lan 12B1
Nguyen Thi Huyen Nga 10 A3
Khoi Xa Hoi :
Bui Manh Hoanh 12B1
Kieu Thi Son 12A1
Khoi Van Nghe :
Do Manh Chu 12B2
Nguyen Thi Thuan Chau 10A3
Ngo ngoc Dung 12A1
Khoi Bao chi :
Hoang Van Son 12B1
Nguyen Thi Le 12B2
Khoi Sinh Hoat thanh nien :
Nguyen van Tuynh
Pham trung Thanh
Niên Khóa
1971-1972:
Đại diện Nam sinh :
Phạm Văn Đức, Q73
-
Trần Dũng Tiến, Q73.
Đại Diện Nữ sinh :
Đào Thị Lương, Q72 -
Ngô
Ngọc Bằng, Q72
Tổng Thư Kư:
Nguyễn Hoàng, Q73
Ban Văn Nghệ :
Trần Quảng Nam, Q73
-
Ng~ Thị Thuận Châu, Q73
Ban Báo Chí :
Nguyễn Quang Nghinh, Q73
-
Ng~ Thị Ngọc Dung, Q73
Ban Thể Thao :
Mai
Cao Tăng Q73 -
Ng~ Thị Kim Khánh,
Q73
Ban Trật Tự :
Phạm Văn Việt, Q72
-
Dương thị Quư, Q72
Ban Xă Hội :
Bùi Thanh Vũ, Q73 -
Phạm Thị Oanh,
Q72
Ban Học Tập :
Phạm
Trung Thành, Q73 -
Ng~ Thị Kim
Phượng, Q73
Ban Sinh hoạt học đường :
Phạm Văn Đệ Q72
Niên Khóa
1972-1973:
Đại diện nam sinh:
Chủ Tịch: Nguyễn Trung Vinh
Phó Chủ tịch:
Nguyễn Tri Phương
Tổng Thư ký: Đỗ Ngọc
Vinh
TKTrTu: Mai Cao Tăng
TKVN: Vơ Thanh Long
TKBC: Nguyễn Mạnh Hà
TKTT: Nguyễn Đức Dũng
TTHT: Phan Khắc Thành
TKXH: Hoàng B́nh Hải
Đại diện Nữ Sinh:
Chủ tịch:
Nguyễn Thị Kim Thanh
Phó chủ tịch: Lương Thị Điều
Tổng Thơ Ký: Hoàng Thị Đông
TKTrTu: Nguyễn Thị Kim Xuân
TKVN: Nguyễn Thị Kim Cúc
TKBC: Nguyễn Thị Mai Liên
TKTT: Nguyễn Thị Kim Khánh
TKHT: Nguyễn Thị Mai Phương
TKXH: Nguyễn Thị Oanh
Niên Khóa
1973-1974:
Đại diện Nam Nữ Sinh:
Nguyễn tri Phương - Nguyễn Xuân Hùng
Đinh thị Hạnh - Nguyễn thị Ngọc Yến
Tổng - Phó Tổng Thư Ký và Thủ Quỹ
Đoàn Ngọc Long - Mai thị Bích Thủy
Khối Trật Tự - Khánh Tiết
Hà Hồng Hải - Trần thị Kim
Khối Thể Thao
Nguyễn Xuân Hùng - Nguyễn thị Thanh Hà
Khối Xã Hội
Lê Trọng Điểm - Phạm Kim Hoàng
Khối Học Tập và Du Khảo
Phạm Ngọc Hưởng - Nguyễn thị Hạnh
Khối Văn Nghệ
Đặng Phi Long - Nguyễn thị Vinh
Khối Báo Chí
Hoàng văn Nam - Nguyễn thị Anh Anh
Khối Sinh Hoạt Thanh Niên
Nguyễn Mạnh Hùng - Đào thị Dỹ
Niên Khóa
1974-1975:
Đại Diện Trưởng nam sinh: : TRẦN ĐỨC HIỆP
Đại Diện Trưởng nữ sinh :
ĐINH THỊ THI
Đại Diện Phó Nam sinh : LÊ TRỌNG ĐIỂM
Đại Diện Phó Nữ sinh : NGUYỄN THỊ KIM THANH
Tổng thư kư : NGUYỄN TRUNG QUANG - BÙI TUYẾT MAI
Trưởng khối Báo chí: : LÊ XUÂN SƠN - NGUYỄN THỊ HẠNH
Trưởng khối TT : ĐINH VĂN DŨNG - NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẬU
Trưởng khối Xă hội: NGUYỄN VĂN HẢI - LÊ
THỊ KIM LIÊN
Trưởng khối Trật tự & Khánh tiết:
VŨ VĂN VƯƠNG - BÙI THỊ GIÁO
Trưởng khối sinh hoạt: PHẠM VĂN THIỆN - VŨ THỊ KIM
THANH
Trưởng khối Học tập & Du khảo: NGUYỄN THÀNH CÔNG
- NGUYỄN THỊ MAI TRÂM
Trưởng khối Văn nghệ: NGUYỄN
VĂN MINH - ĐẶNG THỊ BÍCH NGỌC
Các
Ban Đại diện Học Sinh
Trung học Kỹ
Thuật QGNT Sàigon.
Niên Khoá 1971-1972
-Truởng Ban Đại Diện : Hoàng Phan Cư
-Phó Truởng Ban : Đào Gia Ất
-Tổng Thư Kư : Lê Viết Yên
-Thủ Quỹ: Trần Thị Kim
Các Truởng Phó Tiểu Ban:
Ban Thanh Niên :
Nguyễn Duy Cao- Đinh Hữu Vị
Ban xă Hội :
Trần Thị Ánh Hoa - Phan Quư Toàn
Ban Học Tập Kỷ Luật:
Huỳnh Khuơng Trung - Nguyễn Trọng Tuyên
Ban Ngoại Giao liên Lạc :
Bùi Văn Chu - Lê Anh Quân
Ban Khánh Tiết Trật Tự :
Hoàng văn Thuy - Lê Thị Hoàng
Niên Khóa 1972-1973
Tổng Thư ký:
Dương Văn Hữu
Phó Tổng Thư Ký: Đỗ Khắc Hùng
Ban Văn Nghệ-Báo chí: Lê Anh Quân-Phạm Quốc
Gia
Ban Thể Thao-Trật Tự: Vũ Công Thanh-Tạ Trung
Đức
Ban Xã Hội-Khánh Tiết: Lưu Mộng Hoàng-Lê
Minh Rạng
Cô Công An cùng học sinh
Các
Ban Đại diện Học Sinh
Trung học Tổng
Hợp QGNT Sàigon.
Niên Khóa 1974-1975
Trưởng BĐD: Nguyễn Thành Lâm
Phó BĐD : Lưu Minh Trí
Thư kư kiêm thủ quỹ: Nguyễn thị Tuyết
TB Học Tập : Trần Thành Khoa
TB Báo Chí: Vơ thị Minh Phượng
TB Văn Nghệ: Nguyễn thị Kim Phụng
TB Thể Thao: Nguyễn Ngọc Phương
TB Xă Hội: Huỳnh Thanh Phong
................
MỘT VÀI KỶ NIỆM VỚI THẦY CÔ TẠI HOA KỲ.
...Khoảng năm 88-89 tại San Jose, trong một buổi tụ họp các anh chị
em QGNT bắc Cali, có một thầy lại tham dự và cho biết tên là
thầy Quí (???) và đang làm cho Sở Xă
Hộị Kể từ đó đến nay, bặt tin tức của thầỵ
Khoảng năm 90 th́ tôi có đi ăn đám cưới cuả con gái
cô Bảo Ngọc cũng tại San Jose, tại đám
cưới này có cả chị Đinh Thị Hạnh QGNT 74 và một số các bạn từ Nam
Cali lên.
Trước đó hay sau đó th́ có thầy Đắt dạy
Pháp văn qua đời, anh chị em QGNT Bắc Cali đi đám tang thầy khá đông.
Phần đông các thầy cô đi đám tang này là các thầy cô dạy môn Pháp
Văn, có thầy Huỳnh Quang Ân từ bang Washington xuống.
Nói về thầy Ân th́ khi thầy mới qua Mỹ,
nhân dịp gia đ́nh anh em tôi đi vacation qua Canada, khi đi ngang
Seatle, Washington, có ghé nhà thầy chơị. Cô
vợ cuả thầy có đăi ăn hột vịt lộn cùng cơm gia đ́nh thật ngon, c̣n
nhớ cô cứ nh́n đưá cháu trai con cuả anh Phú và nói " Phải thầy Ân
có đứa con trai như cháu đây th́ ông ấy chắc đội lên đầu quá ..."
C̣n nhớ rơ hôm đó là ngày Lễ Độc Lập, v́ buổi tối khi đi ngang khu
Space Needle, từ freeway thấy pháo bông bắn rợp trời, soi sáng những
building cao cuả thành phố Seatle...trông thật đẹp.
Thời gian 90-91 có nhiều gia đ́nh VN qua Mỹ theo diện HO, gia đ́nh thầy
Phan Văn Cự cũng qua San Jose trong dịp nàỵ Kỳ Đại hội QGNT
đầu tiên tại hải ngoại năm 1992, tôi có chở thầy Cự từ bắc xuống nam
Cali tham dự . Tại đại hội dĩ nhiên có rất nhiều thầy cô, nhưng tôi
nhớ nhất là thầy Nguyễn Khánh Do v́ có
học thầy môn Toán năm lớp 12.
Được biết lúc đó thầy Do cư ngụ tại thành phố Houston bang Texas và
thầy có viết văn làm báo và là chủ nhiệm tờ báo trào phúng Con Vịt.
Sau này thầy có cả trang web Convit.com. Thầy
Do là thầy đă tham dự tất cả các kỳ đại hội QGNT ở Cali và
Texas.
Tại Đại hội 2007 ở Nam Cali tôi có nhắc lại với thầy là em vẫn nhớ
trong Sổ Học Bạ năm lớp 12, không biết thầy có phê em " học được, có
cố gắng " như các thày cô khác hay không, nhưng em nhớ nhất là thày
phê em " đứng đắn " .
Ở Đại hội tôi cũng gặp thầy Nguyễn Lộc Thọ
dạy Triết và Công dân, thầy Thọ vẫn dáng dấp có vẻ lè phè dễ dăị Tôi
có đuà với thầy là hồi đi học nhớ thầy nhất là thầy hay mặc quần
thấp.
Cho tới năm 2003 đại hội tại San Jose, tôi có dịp liên lạc với các
thầy cô bằng diện thoại, emails , thơ bưu điện để kính mời quư thầy
cô tham dự đại hội...th́ có thầy Trương Thế
Khôi trả lời bằng email sớm nhất, bây giờ tôi vẫn c̣n giữ
email này:
Khoi Truong <Khoi.Truong@ Halliburton. com> wrote:
Em Khanh,
Thay va Co dang chuan bi de tham du Dai Hoi voi cac em . Suc khoe
thay tuong doi da kha quan nhieu .
Thay co se di cung voi phai doan cua cuu hs Son , Son da tiep xuc va
noi chuyen voi em ? Hinh nhu Son
muon co ve may bay xong xuoi roi moi xin giu cho o khach san . Con
ve Dai Hoi nhu the nao cho thay biet.
Em cho thay gap so dien thoai cua : thay Bui quoc Tuong , thay Le
khac Chan va thay Tran dinh Thanh.
Thay doc website , thay tien trinh DH rat khich lẹ Nhiet tam cua ban
to chuc khong che vao dau duoc.
Dia chi email nay cua thay la dia chi o trong so , se khong con dung
nua trong 2 ngay toi vi thay ve huụ
Vay em goi ve cho thay tai dia chi email o nha : Khoi@wt.net
Cho thay goi loi hoi tham cac em.
Thay,
Truong the Khoị
Tôi nhớ thầy Khôi nhiều v́ có học môn Toán cuả thầy năm đệ tam và
biết nhà thầy nằm trên đường Công Lư, gần Hiền Vương. Khu này có nhà
cuả người bạn là Nguyễn Thiết Thạch trong hẽm 286 mà tôi hay đến
chơi, mỗi lần đi ngang thường thấy thầy trong nhà.
Khoảng năm 2004 hay 2005 thật bàng hoàng hay tin thầy mất tại
Houston. Thật là không công bằng khi thầy mới bắt đầu về hưu, chưa
kịp hưởng nhàn sau bao năm làm việc vất vả.
Tại Đại hội 2003 có cô
Nguyễn Thị Ngọc Nga, dạy môn Anh văn lớp đệ tam, cô Nga ở măi
tận một thành phố gần Torronto, Canada, tôi có hưa với cô là sẽ ra
phi trường đón cộ Buổi trưa thứ sáu hôm đó, sau khi đón các bạn khác
và đi ăn trưa, tới giờ đi đón cô th́ xe bị bể
bánh, may sao nhờ anh Huỳnh Khương Trung đi đón dùm. Năm đó cùng cô
Nga có cô em cuả cô cũng từ Canada qua dự đại hội, cô em này cũng là
cựu học sinh QGNT.
Cũng nhờ cô Nga c̣n giữ tấm hinh chụp chung lớp dệ tứ hay đệ tam mà
cô làm Giáo Sư Hướng Dẫn, chúng tôi mới có được một tấm hinh chụp
chung như vậỵ
Trước Đại hội, nhờ Kim Nga, em Kim Ngân, tôi liên lạc được với
cô Phạm thị Thu Hoài,
cô giáo dạy Toán năm đệ tứ, cô Hoài ở măi tận bang Floridạ Cô người
Huế và có khuôn mặt hiền hậụ
Vui nhất khi gặp lại thầy Phạm Nghệ,
dạy nhạc. Thầy đến San Jose sớm nhất từ tối thứ năm, tôi có ra phi
trường đón thầỵ Vưà gặp mặt là thầy lôi ra ngoài hút thuốc, sau
chuyến bay dài nhiều giờ từ East Coast không được hút. Năm đó 2003
thầy đă 75 nhưng giọng nói và tiếng cười nghe vẫn sang sảng và ḍn
tan.
Có dịp đi ăn phở với thày và thày Cự,
nghe hai thầy nói chuyện cười đuà vui vẻ lắm. Cứ nhớ những ǵ thầy
nói đuà : " Ở đây (Mỹ) không nói được tiếng Anh là coi như câm,
không biết lái xe là hai chân coi như què, không nghe hiểu được
tiếng Anh là đôi tai coi như điếc ..." kinh qua những kinh nghiệm
lúc mới tới Mỹ thầy đi xin việc đánh đàn violin cho một dàn nhạc hoà
tấu lớn.
Năm 2006 th́ có cô Phùng thị Tần từ
Torronto qua San Jose chơi, cô Tần là bạn thân của cô Bảo Ngọc và ca
sỹ Nguyệt cuả Ban Tam Ca ???, cả ba người học chung từ hồi c̣n ở
miền bắc trước năm 54.
Dịp này cô Bảo Ngọc có mời một số thầy
cô và học sinh lại nhà con cuả cô ở Santa Clara để đón tiếp cô Tần.
Hôm đó có rất đông thầy cô và học tṛ, có cả
thầy Hoàng Xuân Thiệu từ Sacramento xuống.
Cách nay gần một năm, phu quân cuả cô Tần qua đời tại Torronto,
Canada, tôi có nói chuyện với cô Bảo Ngọc
về việc mua hoa phúng điếu cho cô Tần. Tôi có nhớ lời cô tâm sự khi
sắp sửa cúp phone : " ...các thầy cô giờ đă yếu rồi, chẳng đi được
đâu, chỉ c̣n biết ngồi nhà, lâu lâu gọi hay ngóng trông chiếc điện
thoại, nói chuyện dăm ba câu với nhau cho đỡ buồn ......".
Mai Viết Khánh QGNT73
|
|
Thời gian trôi chày không ngừng.
Không ai tắm hai lần trong cùng một ḍng sông
(Heraclitus)
Và vũ trụ cũng không thôi biến dịch. Ba mươi năm băi biển hoá
nương dâu. Vướng mắc giữa
hai ḍng chảy ấy, con người, sống, để trải
nghiệm, để chứng tri, để tôn vinh và thương xót cho những đổi
thay. Sự kiện, tự nó đă mang tính chất thời gian và không gian.
Dưới con mắt nhân gian, sự kiện trở nên chuyện kể để lưu truyền.
Gia đ́nh có phả hệ, quốc gia có lịch sử. Và những biên niên, tùy
theo khuôn khổ của đoàn nhóm, theo tính chất của tập thể mang
những tên gọi khác nhau.
Ở đây chúng ta nói về
kỷ yếu. Như tập hợp những mốc dấu để con người có điểm
quy hồi. Chúng ta không có duyên may gần gũi nhau dài lâu, nhưng
có nhiều cơ hội để gặp gỡ và hồi niệm. Chúng ta riêng lẻ, đă có
những tháng năm sống và chia sẻ
theo đúng nghĩa đơn sơ nhất của
ngôn từ. Chẳng cần phải kể lại những khó khăn, đau xót của cùng
quẫn và chia ĺa, nhưng nơi những con người đă
nếm, trải, chung, chia,
đă nẩy sinh một mối dây liên kết tuy có mong manh song
chẳng phải là không bền chắc. Những chuyến công tác, những kỳ
trại hè, những lần dă ngoại gần xa, và cả những lần mang chuông
đi đấm xứ người, anh chị em chúng ta đă chúng tỏ được t́nh yêu
thương đùm bọc, và những cố gắng vươn lên đến những hạn cực cao
vời.
Kỷ Yếu. Như
một tấm gương để chúng ta soi t́m lại trong ḍng sông kỷ niệm,
h́nh bóng của ḿnh trong chuỗi dài của đổi thay hai chiều thời
không nghiệt ngă, mà chúng ta những người nằm trong giao điểm
một cách t́nh cờ, đă tham dự hết ḷng với những khóc cười trôi
nổi. Xin cảm ơn những ngẫu nhiên mà định mệnh đă dành cho ta một
lối mở vào tương lai từ những ngặt nghèo trong quá khứ. Và cảm
ơn sự bao dung của chuyện kể để chúng ta có một chỗ để quay về,
với những thân t́nh, h́nh ảnh, và những ḍng chữ sẽ thấm vào hơi
thở, như một sưởi ấm giữa khi lạnh lẽo của cuộc đời.
Mốc
Thời Gian
1962: Bác sỹ Trương Khuê Quan vận động khởi công xây cất cơ sở.
1963: Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc ra đời. Khánh thành và khai
giảng trường trung học Quốc Gia Nghĩa Tử Saì gòn.
1964:
Một phần Khu Nội trú hoàn thành xây cất và bắt đầu thâu
nhận nội trú sinh nữ.
1965: Hoàn thành xây cất văn phòng Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc.
1966: Hoàn thành xây cất và khai giảng trường trung học Kỹ
Thuật Quốc Gia Nghĩa Tử.
1967: Bộ Cựu Chiến Binh được thành lập, Quốc Gia Nghĩa Tử
Cuộc từ Bộ Quốc Phòng được chuyển qua Bộ Cựu Chiến Binh
thành Viện Giáo Dục Quốc Gia Nghĩa Tử.
Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Huế khai giảng niên khóa đầu tiên.
1968: Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Đà Nẵng khai giảng niên khóa
đầu tiên.
1969: Trường Tiểu Học Quốc Gia Nghĩa Tử Biên Hoà khai giảng
niên khóa đầu tiên và thâu nhận nội trú sinh.
1970: Khu Bệnh Xá được xây cất xong bên cạnh Khu Nội trú.
Khánh thành Thư Viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử Sài gòn.
1971: Trường trung học Quốc Gia Nghĩa Tử Cần Thơ khai giảng
niên khóa đầu tiên.
1972: Trường trung học Tổng Hợp Quốc Gia Nghĩa Tử khai giảng
niên khóa đầu tiên.
1973: Hoàn thành Khu Nội Trú nam sinh và bắt đầu thâu nhận
nội trú sinh nam.
1975: Quốc Gia Nghĩa Tử bị xóa tên cùng tất cả các cơ sở
trên toàn miền nam Việt nam.
DANH SÁCH CỰU GIÁO SƯ
CÁC TRƯỜNG QGNT SAIGON
HỌ |
TÊN |
MÔN DẠY |
CƯ NGỤ |
TRG |
Nguyễn Thị |
Ái |
Vạn Vật |
VN |
|
Nguyễn Thị Công |
An |
Kinh Tế GĐ-Nữ Công |
USA |
TH |
Tran Thị Gia |
An |
Pháp Văn |
USA |
|
Huỳnh Văn |
Ân |
Pháp Văn |
USA |
|
LÊ Thị |
Ẩn |
Lý Hóa |
USA |
|
Nguyễn thị |
Anh |
Anh Văn |
|
TH |
Nguyễn Ngọc |
Anh |
Kỹ Nghệ Gỗ-Sắt |
|
KT |
Hồng Quang |
Anh |
Lý Hoá |
VN |
|
Văn Kim |
Anh |
Lý Hóa |
|
|
Trịnh Phan |
Anh |
Vật Lư |
USA |
|
Lê Thái |
Ất |
Công Dân Giáo Dục |
USA |
|
Lâm Hữu |
Bàng |
Pháp Văn-Việt Văn |
VN |
|
Nguyễn Huy |
Bảo |
Sử Địa |
USA |
|
Lý Thành |
Báu |
Pháp Văn |
|
|
Nguyễn Văn |
Bảy |
Xưởng Mộc |
|
KT |
Lưu Công |
Bình |
Anh Văn |
|
|
Phan Văn |
Bình |
Pháp Văn |
USA |
|
Châu Văn |
Bông |
Thể Dục |
|
KT PT |
Trần Văn |
Bông |
|
USA |
|
Nguyễn Mạnh |
Cầm |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Lê Thị Hoàng |
Cầm |
Lý Hoá |
|
TH |
Lê Thị Hồng |
Cẩm |
Anh Văn |
|
TH |
Lê Khắc |
Chấn |
Toán |
USA |
|
Đỗ Thị Kim |
Châu |
Anh Văn |
|
KT |
Phạm Đăng |
Châu |
Việt văn |
|
|
Đỗ Dương |
Chi |
Anh Văn |
USA |
|
Vũ Kim |
Chi |
Vạn Vật |
USA |
|
Phạm |
Chí |
Kỹ Nghệ Họa |
|
KT |
Lâm Bá |
Chí |
Sử Địa |
|
TH |
Triệu Thị |
Chơi |
Kinh Tế GĐ |
VN |
TH |
Phan Tấn |
Chữ |
Xưởng Điện Tử |
|
KT |
Lý Công |
Chuẩn |
Anh Văn |
VN |
|
Ngô Quang |
Chương |
Anh Văn |
VN |
|
Trần Thị |
Chương |
Phòng Thí Nghiệm |
Anh |
|
Phan Văn |
Cự |
Lý Hóa |
USA |
|
Trần Thị |
Cu'c |
|
USA |
|
Huỳnh Sơn |
Cương |
Tóan |
|
KT |
Võ Phú |
Cường |
Cơ Khí Ô Tô |
|
KT |
Đặng Mạnh |
Cường |
Anh Văn |
|
KT |
Bùi |
Dã |
Việt Văn |
VN |
KT PT |
Nguyễn Thị Thọ |
Đa |
Công Dân Giáo Dục |
USA |
|
Bùi Văn |
Đắc |
Hạnh Kiểm-Thể Dục |
|
KT |
Vũ Xuân |
Đào |
Anh Văn |
USA |
|
Nguyễn Xuân |
Đạo |
Việt Văn |
VN |
|
Trần Văn |
Đắt |
Pháp Văn |
VN |
|
Nguyễn Tất |
Đạt |
Anh Văn |
VN |
|
Nguyễn Trọng |
Đạt |
Lý Hóa |
|
|
Phan Văn |
Đạt |
Việt Văn |
|
|
Trần Văn |
Đạt |
Pháp Văn |
VN |
|
Lê Thị |
Đẹp |
Mỹ Thuật Hoạ |
|
KT |
Vũ Viết |
Di |
Anh Văn |
USA |
|
Nguyễn khuê |
Diễm |
Pháp Văn |
|
|
Nguyễn Thị |
Diễm |
|
USA |
|
Trần Thị Ngọc |
Diệp |
Anh Văn |
|
|
Hồ Thị Ngọc |
Diệp |
Toán |
|
|
Nguyễn Duy |
Định |
Mỹ Thuật Hoạ |
|
KT |
Nguyễn Văn |
Định |
Toán-Lý Hóa |
|
KT |
Nguyễn Khánh |
Do |
Toán |
USA |
|
Nguyễn Văn |
Đời |
Thể Dục |
|
PT KT |
Đặng Trần |
Dư |
|
USA |
|
Nguyễn Trọng |
Đức |
Việt Văn |
|
TH |
Hoàng Mai |
Dung |
Anh Văn |
USA |
TH |
Nguyễn Thị Xuân |
Dung |
Anh Văn |
|
TH |
Bùi Thu |
Dung |
Sử Địa |
VN |
|
Nguyen Thi |
Dung |
Sử Địa |
Canada |
|
Vơ Thị Ngọc |
Dung |
Việt Văn -Sử Địa |
VN |
|
Nguyễn Kim |
Dũng |
Việt Văn |
|
|
Trần Quốc |
Giám |
Sử Địa |
USA |
|
Cô |
Hà |
Canh Nông |
|
TH |
Lê Văn |
Hai |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Nguyễn thị |
Hải |
Kinh Tế GĐ |
|
TH |
Trần Mộng |
Hải |
Kinh Tế GĐ |
|
TH |
Huỳnh Thanh |
Hải |
Kỹ Nghệ Họa |
|
KT |
Nguyễn Thanh |
Hải |
Kỹ Nghệ Họa |
|
KT |
Ngô Đức |
Hải |
Sử Địa-Công Dân |
USA |
KT |
Trân |
Hải |
Toán |
|
|
Nguyễn Đình |
Hải |
Vạn Vật |
|
|
Trần Thạch |
Hậu |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Dương Công |
Hiến |
Pháp Văn |
|
KT PT |
Nguyễn thị |
Hiếu |
Anh Văn-Toán-Công Dân |
VN |
TH PT |
Trần Ngọc |
Hồ |
Công Dân Giáo Dục |
VN |
PT KT TH |
Hà Lương |
Hoa |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Nguyễn Thị |
Hoa |
Thể Dục |
|
TH |
Trần Mai |
Hoa |
|
VN |
|
Huỳnh Thị |
Hoà |
Hội Họa |
|
|
Lê thị |
Hoà |
Kinh Tế GĐ-Nữ Công |
Australia |
TH |
Nguyễn thị |
Hoà |
Lý Hóa |
USA |
KT |
Vũ Thị |
Hoà |
Việt Văn |
|
|
Phạm Văn |
Hoà |
Xưởng Điện Nhà |
|
KT |
Đỗ Trọng |
Hoà |
Xưởng Điện Tử |
Japan |
KT |
Nguyễn Thị Xưng |
Hòa |
Lý Hóa |
USA |
KT |
Nguyễn Thị Thu |
Hoài |
Toán |
USA |
|
Nguyẽn Khoan |
Hồng |
Kỹ Nghệ Họa |
USA |
KT |
Nguyễn Văn |
Hồng |
Lý Hóa |
|
KT |
Nguyễn Thị Xưng |
Huê |
Nữ Công Gia Chánh |
|
KT |
Đỗ Thị |
Huệ |
Công Dân Giáo Dục |
VN |
|
Đỗ thị |
Huệ |
Toán |
|
TH |
Nguyễn Thu |
Hương |
Lý Hóa |
|
|
Phan Thu |
Hương |
Sử Địa |
|
|
Huỳnh Ngọc |
Hương |
Thể Dục |
|
|
Nguyễn thị |
Hường |
Kinh Tế GĐ |
VN |
TH |
Phan Thu |
Hường |
Thể Dục |
|
|
Lân Võ |
Huỳnh |
Pháp Văn |
|
|
Bửu |
Khải |
Anh-Pháp Văn |
Úc |
|
Lê Đức |
Khanh |
Anh Văn |
USA |
|
Nguyễn Phúc |
Khánh |
Toán |
|
|
Bùi Văn |
Khánh |
Anh Văn |
USA |
|
Võ Duy |
Khiết |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Huỳnh Thành |
Khiết |
Hội Hoạ |
VN |
TH PT |
Nguyễn Thanh |
Khiết |
Toán |
USA |
|
Nguyễn Thế |
Khoa |
Sử Địa |
|
|
Võ Xuân |
Khoa |
Pháp Văn |
|
|
Trần Văn |
Khoa |
Sử Địa |
|
|
Vũ Đình |
Khoái |
Anh Văn |
USA |
|
Trương Thế |
Khôi |
Toán |
USA |
|
Lê Văn |
Khởi |
Canh Nông |
|
TH |
Phạm Văn |
Khừ |
Anh Văn |
|
|
Nguyễn |
Khuê |
Việt Văn |
VN |
|
Phạm Đình |
Khuyến |
Toán |
VN |
|
Châu thị Minh |
Kim |
Sử Địa |
VN |
TH |
Nguyễn Đức |
Kim |
Toán |
|
|
Nguyễn Thị Mỹ |
Lai |
Việt Văn |
|
|
Nguyễn Quý |
Lãm |
Âm Nhạc |
|
TH |
Trần Bích |
Lan |
Triết |
VN |
|
Nguyễn Phương |
Lan |
Vạn Vật |
USA |
|
Phạm Văn |
Lâu |
Hạnh Kiểm |
|
|
Đặng Văn |
Lâu |
Sử Địa |
VN |
|
Lưu Thị |
Lệ |
Anh Văn |
VN |
|
Pham Thanh |
Liêm |
Triết |
USA |
|
Lương Văn |
Liên |
Sử Địa |
|
|
Nguyễn thị Kim |
Liên |
Việt Văn |
VN |
TH |
Lê Thị Kim |
Liên |
|
VN |
|
Đỗ thị |
Lĩnh |
Sử Địa |
USA |
|
Trần Thị Kim |
Loan |
Lý Hóa |
USA |
|
Hoàng Thị |
Lộc |
Sử Địa |
USA |
TH PT |
Hoàng Đình |
Lộc |
Pháp Văn |
USA |
|
Nguyễn Phúc |
Lộc |
Triết |
|
|
Dương Xuân |
Lợi |
Anh Văn |
VN |
|
Đặng Hữu |
Lợi |
Lý Hoá |
|
TH |
Phạm Như |
Long |
Anh Văn |
VN |
|
Đặng Thị Thanh |
Long |
Nữ Công |
VN |
TH KT |
Nguyễn Thanh |
Long |
Nữ Công |
|
|
Huỳnh Hữu |
Luận |
Việt Văn |
VN |
|
Trần Cao |
Luận |
Pháp Văn |
|
|
Ôn Tấn |
Lượng |
Công Kỹ Nghệ |
USA |
TH |
Trần Khắc |
Lượng |
Lý Hóa |
France |
KT |
Lê Đình |
Lý |
Vật Lý |
|
|
Trấn Phương |
Mai |
Việt Văn |
VN |
|
Đặng |
Mẫn |
Toán |
|
TH |
Phan |
Mật |
Vạn Vật-Toán |
|
PT KT |
Lương Kiều |
Miên |
Âm Nhạc |
|
|
Hồ văn |
Miêng |
Điện KT-Cơ Khí |
VN |
KT |
Trần Bửu |
Minh |
Toán |
USA |
|
Hoàng Thị |
Minh |
Việt Văn |
|
|
Thầy |
Mạnh |
Anh Văn |
|
TH KT |
Nguyễn Cao |
Mỹ |
Kỹ NghệHọa |
USA |
KT |
Nguyễn Hoài |
Nam |
Canh Nông |
|
TH |
Nguyễn Thanh |
Nam |
Toán |
|
|
Nguyễn Thị Ngọc |
Nga |
Anh Văn |
Canada |
PT TH |
Nguyen Thi Xuân |
Nga |
Việt Văn |
USA |
|
Trịnh Công |
Ngàn |
Toán |
|
|
Phạm |
Nghệ |
Âm Nhạc |
USA |
TH PT |
Quỳnh Văn |
Nghĩa |
Sử Địa |
|
|
Phạm Quan |
Nghĩa |
Việt Văn |
|
|
Phạm Thị Bảo |
Ngọc |
Pháp Văn |
USA |
|
Vũ Trọng |
Ngọc |
|
|
|
Nguyễn Thành |
Ngôn |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Vơ Hoài |
Nguyên |
Toán |
VN |
|
Nguyễn Văn |
Nhạc |
Hiệu Đoàn |
|
|
Huỳnh Thị |
Nhạn |
Sử Địa |
|
|
Nguyễn Văn |
Nhu |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Nguyễn Thị |
Nhung |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Hồ Thị Ngọc |
Nữ |
Việt Văn |
USA |
|
Cao Kim |
Nương |
Âm Nhạc |
VN |
TH |
Trần thị Kim |
Oanh |
Anh Văn-Công Dân |
USA |
|
Bùi Thị |
Oanh |
Lý Hóa |
USA |
|
Nguyễn văn |
Paul |
Phòng Thính Thị |
|
TH |
Vương Thành |
Phát |
Kỹ Nghệ Sắt |
|
KT |
Nguyễn Hữu |
Phi |
Kỹ Thuật Điện |
|
KT |
Nguyễn Đôn |
Phong |
Sử Địa |
Canada |
|
Phạm Trọng |
Phu |
Anh Văn-Sử Địa |
USA |
KT |
Nguyễn Xuân |
Phúc |
Âm Nhạc |
|
|
Đỗ thị |
Phụng |
Anh văn |
USA |
KT |
Phạm Minh |
Phương |
Việt Văn |
|
|
Nguyễn Minh |
Phương |
Việt Văn-Lý Hóa |
|
|
Nguyễn Huy |
Quang |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Trần Thị Mạnh |
Quang |
Công Dân Giáo Dục |
USA |
|
Lê Văn |
Quang |
Ky Nghệ Họa |
VN |
KT |
Nguyễn Thành |
Quang |
Pháp Văn |
|
|
Trần Đăng |
Quang |
Toán |
Canada |
TH PT |
Nguyễn Huy |
Quang |
Việt Văn |
|
|
Nguyễn Đức |
Quảng |
Sử Địa |
France |
TH |
Phan |
Quệ |
Hội Họa |
USA |
|
Phạm Minh |
Quí |
Triết |
USA |
|
Đặng Vũ T |
Quy |
Vạn vật |
|
|
Nguyễn Bạch |
Quỳ |
Lý Hoá |
|
TH |
Tôn Thất |
Quỳnh |
Canh Nông |
|
TH |
Huỳnh Ngọc |
Sang |
Anh Văn |
|
|
Cô |
Sâm |
Việt Văn |
|
TH |
Tô Văn |
Sẻ |
Triết |
|
|
Nguyễn |
Sơn |
Toán |
VN |
|
Ngô Thị Băng |
Sơn |
Vạn Vật |
VN |
|
Võ Kim |
Sơn |
Vạn Vật |
USA |
|
Nguyễn Thiện |
Sự |
Toán |
|
KT |
Công Tằng TN Thu |
Sương |
|
USA |
|
Đặng Trần |
Sỹ |
Toán |
|
KT |
Phan Thanh |
Tâm |
Công Dân GD |
USA |
|
Huỳnh Minh |
Tâm |
Công Kỹ Nghệ |
VN |
KT TH |
Hoàng Thị |
Tâm |
Lý Hóa |
|
KT |
Huỳnh Hữu |
Tâm |
Giám Học |
|
KT |
Lê Minh |
Tâm |
|
VN |
|
Diệp Vĩnh |
Tấn |
Pháp Văn |
VN |
|
Lê Quan |
Tấn |
Pháp Văn |
VN |
|
Lê Quốc |
Tấn |
Vạn vật |
USA |
|
Phùng Thị |
Tần |
Pháp Văn |
Canada |
|
Đặng Thị |
Thái |
Anh Văn |
|
|
Vũ Công |
Thân |
|
USA |
|
Hoàng Thị Đan |
Thanh |
Sử Địa-Vạn Vật-CD |
|
|
Trần Đình |
Thành |
Anh Văn |
USA |
|
Hồ Văn |
Thành |
Xưởng Điện Nhà |
|
KT |
Hoàng Đình |
Thành |
|
USA |
|
Tống Phước |
Thạnh |
Toán |
|
|
Trịnh Thị |
Thảo |
Vạn vật |
|
|
Phạm Thị Tích |
Thiện |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Hoàng Xuân |
Thiệu |
Sử Địa |
USA |
|
Đặng Hưng |
Thịnh |
Anh Văn |
USA |
|
Lưu Thị |
Thơ |
Việt Văn |
VN |
|
Nguyễn Thế |
Thọ |
Kỹ Nghệ Mộc |
VN |
KT |
Nguyễn Phúc |
Thọ |
Toán |
|
KT |
Nguyễn Trọng |
Thọ |
Toán |
|
KT |
Nguyễn Lộc |
Thọ |
Triết-Công Dân |
USA |
KT PT |
Nguyễn Văn |
Thơm |
Vạn Vật |
USA |
|
Trịnh Văn |
Thông |
Cơ Khí Ô Tô |
|
KT |
Nguyễn Chí |
Thông |
Toán |
|
KT |
Phan Hữu |
Thông |
Việt Văn |
VN |
TH |
Nguyễn Thị Ánh |
Thu |
Toán-Vạn Vật |
|
|
Nguyễn Văn |
Thu |
Việt Văn |
Canada |
|
Nguyễn thị |
Thuật |
Công Dân Giáo Dục |
VN |
TH |
Nguyễn Thị |
Thục |
Công Dân Giáo Dục |
|
|
Pham Thi |
Thục |
Vạn Vật-Lý Hóa |
France |
|
Nguyễn Văn |
Thưởng |
Toán |
|
KT |
Phạm Thị Ngọc |
Thúy |
Lý Hóa |
|
|
Lại Thị |
Thủy |
Lư Hóa |
|
|
Nguyễn Thanh |
Thủy |
Lư Hóa |
|
|
Lâm Thị Bích |
Thủy |
Việt Văn-Anh Văn |
VN |
|
Cao Thị Thủy |
Tiên |
Sử Địa |
VN |
|
Phan Huy |
Tô |
Toán |
VN |
|
Trần Thành |
Tôn |
Toán |
|
KT |
Phan Trương |
Trắc |
Vạn vật |
VN |
|
Hồ Công |
Trí |
Anh Văn |
VN |
|
Trần Đình |
Trị |
Anh Văn |
USA |
|
Nguyễn Khắc |
Trung |
Lư Hóa |
|
|
Nguyễn |
Trương |
Anh Văn |
|
|
Lữ Anh |
Tú |
Lý Hóa |
Sweden |
|
Huỳnh Văn |
Trường |
Toán |
Canada |
|
Trần Thị Ngọc |
Tú |
Anh Văn |
|
TH |
Bùi Quốc |
Tường |
Toán |
USA |
|
Phan Trương |
Tuy |
Toán |
VN |
|
Phan thị Lâm |
Tuyền |
Vạn Vật |
USA |
TH |
Trầm Ngọc |
Tuyết |
Nữ Công Gia Chánh |
|
KT |
Trương Thị Đạm |
Tuyết |
|
USA |
|
Nguyễn Hàn |
Tý |
Kỹ Nghệ Họa |
USA |
KT |
Đỗ Đại Thanh |
Vân |
Kỹ Nghệ Họa |
VN |
KT |
Đặng Thị |
Vân |
Pháp Văn |
|
|
Kỷ Thanh |
Vân |
Toán |
|
|
Nguyễn Thành |
Vân |
Toán |
VN |
KT PT |
Phan Thị Xuân |
Vân |
Việt Văn-Sử Địa |
|
|
Trần Xuân |
Văn |
Sử Địa |
|
|
Trần Thị Thu |
Vân |
Âm Nhạc |
USA |
|
Ninh Thế |
Việt |
Pháp Văn |
|
KT |
Hoàng |
Vinh |
Lý Hóa-Việt
Văn |
|
TH PT |
Vũ Thị |
Vinh |
Toán |
|
|
Vũ Ngọc |
Vĩnh |
Lý Hoá |
USA |
|
Đào Văn |
Vượng |
Lý Hoá |
USA |
|
Nguyễn Văn |
Vỹ |
Việt Văn |
VN |
|
Đoàn |
Xâng |
Toán |
|
TH |
Nguyễn Hồng |
Xí |
Sử Địa |
VN |
|
Nguyễn Văn |
Xiêm |
Anh Văn |
USA |
|
Nguyễn Kim |
Xuyến |
Vạn vật |
USA |
|
Nguyễn Ngọc |
Yến |
Hội Họa-Nữ Công |
USA |
|
Nguyễn thị |
Yến |
Kinh Tế GĐ |
|
TH |
Ghi chú: Cột "Cư Ngụ" nếu để
trống có nghĩa là chưa liên lạc được.
Cột "TRƯỜNG" nếu để trống là trường Phổ
Thông (PT);
TH l à Tổng Hợp, KT
là Kỹ Thuật.
Các Thành Tích Biểu
của học sinh mang chữ ký của Thầy Cô cách nay hơn 40 năm
DANH SÁCH NHÂN VIÊN GIÁM
THỊ
CÁC TRƯỜNG QGNT SAIGON
Họ |
Tên |
Chức Vụ |
Nơi Làm |
|
Ái |
Giám Thị |
PT |
Bui thi |
Anh |
Hành Chánh |
PT |
Nguyễn Thị |
Anh |
Giám Thị |
Noi Tru |
Đỗ Quang |
Anh |
Giám Thị |
PT |
Lê Thị |
Ánh |
Giám Thị |
Nội Trú |
Nguyễn Thu |
Ba |
Giám Thị |
Nội Trú |
Phạm Văn |
Bính |
Giám Thị |
PT |
Nguyễn Văn |
Chương |
Giám Thị |
Nội Trú |
Nguyễn Thị |
Cúc |
Giám Thị |
Nội Trú |
Thầy |
Cường |
Giám Thị |
TH |
Bùi Văn |
Đắc |
Tổng Giám Thị |
KT |
Phạm Văn |
Đệ |
Giám Thị |
Nội Trú |
Kỳ Mậu |
Dung |
Giám Thị |
Nội Trú |
Nguyễn Khắc |
Dũng |
Giám Thị |
Nội Trú |
Vũ Ngọc |
Hân |
Giám Thị |
PT |
Bùi Vinh |
Hạnh |
Giám Thị |
PT |
Phù Liên |
Hoa |
Giám Thị |
Nội Trú |
Huỳnh |
Hoa |
Giám Thị |
Nội Trú |
Nguyễn Thị Tuyết |
Hoa |
Giám Thị |
Nội Trú |
Vũ Văn |
Hồng |
Giám Thị |
PT |
Nguyen thi |
Huệ |
Giám Thị |
Noi Tru |
Trương |
Hương |
Giám Thị |
PT |
Nguyễn Văn |
Kình |
Tổng Giám Thị |
PT |
Lê |
Kính |
Giám Thị |
KT |
Huỳnh Văn |
Lâu |
Tổng Giám Thị |
KT |
Tran Thi Kim |
Liẻm |
Giám Thị |
KT |
Nguyen Duy |
Liẻm |
Giám Thị |
KT |
Hoàng Xuân |
Liên |
Giám Thị |
PT |
Hoàng Thị |
Lộc |
Tổng Giám Thị |
TH |
Nguyễn |
Luật |
Giám Thị |
Nội Trú |
Cô |
Mai |
Giám Thị |
Nội Trú |
Vũ Thị |
Mão |
Giám Thị |
PT - NT |
Phạm Hữu |
Mậu |
Giám Thị |
Nội Trú |
Nguyễn văn |
Minh |
Giám Thị |
KT |
Ngụy |
Muội |
Giám Thị |
TH |
Nguyễn |
Mười |
Giám Thị |
PT |
Trần Văn |
Mười |
Tổng Giám Thị |
PT |
Nguyễn Thị |
Na |
Giám Thị |
Nội Trú |
Bùi Văn |
Nghĩa |
Giám Thị |
PT |
Ngô thi |
Nguyệt |
Giám Thị |
PT |
Nguyễn Thị Minh |
Nguyệt |
Giám Thị |
Nội Trú |
Nguyễn Quang |
Nhật |
Giám Thị |
Nội Trú |
Hoàng Văn |
Nhu |
Giám Thị |
PT |
Lê Thị |
Niệm |
Giám Thị |
Nội Trú |
Trần Văn |
Phiên |
Giám Thị |
Thư Viện |
Nguyễn Thị |
Phú |
Giám Thị |
PT |
Mạc Thị |
Phùng |
Giám Thị |
Nội Trú |
Cô |
Phụng |
Giám Thị |
Noi Tru |
Đỗ Thị |
Phương |
Giám Thị |
PT |
Cô |
Quế |
Giám Thị |
Nội Trú |
Đặng Thị |
Sa |
Giám Thị |
Nội Trú |
Nguyễn |
Sơn |
Tổng Giám Thị |
PT |
Đỗ Thị |
Sỹ |
Giám Thị |
Nội Trú |
Phạm Văn |
Thân |
Giám Thị |
PT |
Đào Thị |
Thân |
Giám Thị |
PT |
Nguyễn Văn |
Thăng |
Giám Thị |
PT |
Nguyễn Thị |
Thanh |
Giám Thị |
PT |
Vũ Thị |
Thạo |
Giám Thị |
Nội Trú |
Vũ Đức |
Thiêm |
Giám Thị |
PT |
Trần Văn |
Thiên |
Giám Thi |
PT |
Mai Trường |
Thọ |
Giám Thị |
PT |
Nguyễn |
Thống |
Giám Thị |
An Ninh |
Vũ Thị |
Toan |
Giám Thị |
Nội Trú |
Trần Thị Kim |
Trí |
Giám Thị |
PT |
Ngô Đức |
Tựu |
Giám Thị |
TH |
Nguyễn Văn |
Tuynh |
Giám Thị |
Nội Trú |
Trần Văn |
Úc |
Giám Thi |
PT |
Lê Văn |
Út |
Tổng Giám Thị |
KT |
Nguyễn Thị Thu |
Vân |
Giám Thị |
Nội Trú |
Hứa Thị |
Vinh |
Giám Thị |
PT |
Nguyễn Thị |
Vinh |
Giám Thị |
PT |
Trần Thị |
Vinh |
Giám Thị |
Nội Trú |
Nguyễn Văn |
Vỹ |
Khu Trưởng |
Noi Tru |
Vũ Văn |
Vỹ |
Giám Thị |
PT |
Cô |
Xá |
Giám Thị |
Nội Trú |
DANH SÁCH CỰU GIÁO SƯ
và BAN GIÁM HIỆU TRƯỜNG
QGNT HUẾ
Họ |
Tên |
Môn |
Phan Văn |
Cự |
Hiệu Trưởng |
Bửu |
Đôn |
Hiệu Trưởng |
Nguyễn Hứa |
Hàm |
Thể Dục |
Nguyễn Thi Lệ |
Hằng |
Thể Dục |
Đinh Tấn |
Hùng |
Toán-Lý Hóa |
Nguyễn Văn |
Huyền |
Tổng Giám Thị |
Truơng Thị |
Lai |
Việt Văn |
Phan Thi Nhật |
Lệ |
|
Nguyễn |
Mê |
Giám Thị-Nội Trú |
Tạ Ngọc |
Minh |
Anh Văn |
Cô |
Nghệ |
Sử Địa |
Phạm Mạc Trường Ly |
Phương |
Nhạc |
Hoàng Mạnh |
Quân |
Sử Địa |
Thầy |
Quân |
Công Dân |
Thầy |
Quế |
Toán-Lý Hóa |
Phan Thi Thanh |
Tâm |
Công Dân |
Bác |
Tháo |
Giám Thị |
Bà |
Thệ |
Nhân Viên |
Nguyễn |
Thu |
Giám Thị |
Nguyễn Thắng |
Thưởng |
Hội Họa |
Hoàng Hữu |
Tiếu |
Hiệu Trưởng |
Đăng Công |
Toại |
Việt Văn |
Huỳnh Thị |
Trung |
Vạn Vật |
Nguyễn Khoa Diệu |
Tùy |
Anh-Pháp Văn |
Lâm Quốc |
Tuyên |
Việt Văn |
Truơng Thi Đạm |
Tuyết |
|
Phan Thị Thu |
Vân |
Việt Văn |
DANH SÁCH CỰU GIÁO SƯ và
BAN GIÁM HIỆU TRƯỜNG QGNT ĐÀ NẴNG
Họ |
Tên |
Môn |
Cư Ngụ |
Nguyễn Thiúy |
Ái |
Vạn Vật |
USA |
Lê Thị Thanh |
An |
Sử Địa |
VN |
Thu |
An |
|
|
Phan Đình |
Ánh |
Anh Văn |
VN |
Trịnh Thị Ngọc |
Bích |
Toán-Việt Văn |
VN |
Lê Thị |
Cẩm |
Anh Văn |
VN |
Huỳnh Sơn |
Cương |
Toán-Công Dân |
VN |
Đặng Văn |
Cường |
Công Dân |
VN |
Nguyễn Nhung |
Đích |
Anh Văn |
|
Vĩnh |
Diện |
Âm Nhạc |
USA |
Ngọc |
Dung |
Anh Văn |
|
Trần Thị Kim |
Dung |
Lý Hóa |
VN |
Trịnh |
Đương |
Toán |
VN |
Nguyễn |
Giang |
Giám Thị |
VN |
Nguyễn Thị |
Hạnh |
Sử Địa - Nữ Công |
VN |
Lâm Thúy |
Hậu |
Anh Văn - Việt Văn |
VN |
Trần Thị Mai |
Hoa |
Lý Hóa - HĐP |
VN |
Nguyễn |
Hoa |
Hiệu Trưởng 68-70 |
VN |
Tạ Đạo |
Huệ |
Anh Văn |
|
Nguyễn Thị Như |
Huệ |
Lý Hóa |
|
Trần Như |
Hùng |
Toán - HĐT73-74 |
VN |
Hạ Quốc |
Huy |
Hội Họa |
USA |
Trần Văn |
Huy |
Giám Thị |
VN |
Trần Thị Phương |
Khuê |
Việt-Toán-Vạn Vật |
VN |
Tôn Thất Dương |
Kỳ |
Pháp Văn-HĐT71-75 |
VN |
Bùi Thị Phương |
Lan |
Toán - Sử Địa |
VN |
Đặng |
Lỡ |
Giám Thị - An ninh |
|
Nguyễn Thị Tề |
My |
Lý Hóa |
|
Nguyễn Văn |
Ngọc |
Việt-Anh Văn |
USA |
Bích |
Ngọc |
Toán |
|
Nguyễn Thị |
Nhi |
Thể Dục |
USA |
Nguyễn Văn |
Nở |
Giám Thị - An Ninh |
|
Hoàng Trọng |
Nồng |
Anh Văn HĐT-TGT |
VN |
Thầy |
Quế |
Toán |
|
Phan Thị |
Quy |
Hội Họa-Nữ Công |
VN |
Lê Thị Minh |
Tâm |
Việt Văn |
VN |
Trần Thị Liên |
Tâm |
Sử Địa |
VN |
Phạm Sỹ |
Tấn |
Toán - GH71-75 |
|
Nguyễn Thị |
Thuận |
Âm Nhạc |
|
Phan Đình |
Thưởng |
Thể Dục |
VN |
Nguyễn Văn |
Tích |
Vạn Vật |
VN |
Thầy |
Tiễn |
Lý Hóa |
VN |
Nguyễn Ích |
Xuân |
Hiệu Trưởng 67-68 |
|
Lê Ngọc |
Xuất |
Thư Ký Văn Phòng |
|
Hoàng Thị |
Yến |
Hội Họa |
VN |
Thăm Thầy
Hoàng Xuân Thiệu
Viện
Giáo Dục QGNT : Những Bước Đầu Thành Lập
Cuối tuần qua 31 tháng 7 - 2010 chúng tôi có
dịp lên thành phố El Grove nằm về
phía nam của thành phố Sacramento, California viếng thăm thày
Hoàng Xuân Thiệu, cựu hiệu trưởng trường trung học QGNT và sau đó là
Thanh tra cuả Viện Giáo dục QGNT.
Sau những lời hỏi thăm sức khoẻ cuả thày, chúng tôi có xin phỏng vấn
thầy về thời gian thầy phục vụ tại Viện QGNT. Sau dây là những ư
chính do thầy cho biết.
Toàn bộ cuộc phỏng vấn sẽ dược ghi chép lại đầy đủ và
cho vào cuốn Kỷ Yếu 50 Năm QGNT sẽ được phát
hành vào dịp Lễ Kỷ Niệm 50 Năm QGNT tại San Jose Bắc
California vào ngày 6 tháng năm 2013.
1. Ư tưởng về QGNT có được do bác sỹ Trương Khuê Quan sau khi qua
Hoà Lan tham dự một hội nghị về vấn đề giúp đỡ các con em cuả các
chiến sỹ đă hy sinh trong các cuộc chiến tranh thế giớị Năm này là
năm 1957 và lúc đó bác sỹ Quan là Cục Trưởng Cục Xă Hộị
2. Với ư tưởng này, khi về nước, bác sỹ Quan đă vận động các bạn bè
, ân nhân (thày Thiệu gọi là " Nhóm Nhân Sỹ Saigon " đóng góp mỗi
người 200 ngàn đồng để xây dựng trường QGNT, kiến trúc sư vẽ đồ án
không tính tiền, và các nhà thầu xây cất không tính tiền công.
Về khu đất, trước đó dự định xây tiếp nghiă địa Tây, nhưng sau năm
54 th́ nhu cầu cho nghiă điạ không c̣n, và khu đất được "tă,ng" cho
QGNT.
3. Sau khi ngôi trường được xây dựng xong, nhóm nhân sỹ này tặng cho
Bộ Quốc Pḥng. (1962-1963)
4. Bộ Quốc pḥng thành lập Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc và bổ nhiệm bác sỹ
Quan từ Cục trưởng Cục Xă Hội về làm Cuộc Trưởng QGNT Cuộc và chính
thức khánh thành trường trung học QGNT Saig̣n (1963)
5. Tới năm 1967, Bộ Cựu Chiến Binh được thành lập và QGNT Cuộc được
bàn giao từ Bộ Quốc Phon`g qua Bộ Cựu Chiến Binh.
Bộ Cựu Chiến Binh đổi lại thành Viện Giáo Dục QGNT, là một trong
nhiều Viện trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh. (thí dụ Viện Quốc Gia Phục
Hồi .v.v..)
6. Tổng số học sinh cho mỗi niên khóa là khoảng 3500 học sinh, chia
ra 65 lớp, 60 lớp ở hai building chính, và 5 lớp tại khuôn viên khu
nội trú..
C̣n rất nhiều các chi tiết cũng như những kỷ niệm đáng nhớ cuả thầy
và ngôi trường QGNT. Nguyên văn buổi
nói chuyện này sẽ được đăng vào Tập Kỷ Yếu dự định
sẽ phát hành vào dịp Lễ Kỷ Niệm 50
Năm QGNT được thành lập,
July 6 2013 tai thanh phô
San Jose, băc California.
Nói về thầy
Phạm Nghệ và thầy Huỳnh Thành Khiết:
(Trích trong bài
phỏng vấn thầy Hoàng Xuân Thiệu)
Thầy kể thêm về chuyện của thầy Phạm Nghệ dạy nhạc và thầy Khiết dạy vẽ cho nghe
v́ đây là hai người thầy cưng nhất trong thời gian làm việc ở trường.
Mỗi lần có dịp đi Vũng Tàu hay Nha Trang mỗi lớp chỉ được chọn vài em nhưng thầy
Nghệ th́ lúc nào cũng ghi danh Phạm Nghệ và ban hợp xướng .Thầy ấy bảo với thầy
rằng “Anh mà không cho nó đi th́ lần sau nó không hát nữa.” Những lần tập hát mà
có học tṛ phá phách nhiều, thầy Nghệ lại bảo thầy “Lâu lâu anh ghé qua một tí
tụi nó sợ anh thành ra nó nghiêm túc tập hát. Chứ không tôi bảo chúng nó không
chiụ hát”.
Về phần thầy Khiết cái đam mê của ông Khiết th́ rất khác. Những lần thăm viếng
của tổng thống th́ thầy rất lo lắng về vấn đề trang hoàng. Thầy Khiết lại không,
ông chẳng lo lắng ǵ. Khi thầy hỏi th́ ông bảo “Đó là chuyện của tôi anh đừng
lo” Đến đêm trước ngày thăm viếng th́ thầy Khiết vẽ đến 2 giờ sáng. Thầy có hỏi
tại sao th́ thầy Khiết trả lời “Vẽ như thế này th́ màu sắc của những cánh phượng
mới tươi mới thắm”. Thầy muốn để dành những phông h́nh lại dùng cho lần tới th́
thầy Khiết bảo “Lần tới vẽ cái mới để dành làm ǵ. Không cần dùng những phông đă
bạc màu”
Đây là những thầy mà thầy cưng như cưng trứng không có th́ khổ lắm. Sau 1975
Thầy có đi học tập chung với thầy Khiết khi được trả về ông đau yếu luôn và đă
qua đời. Thầy Nghệ th́ vẫn gọi thăm hỏi với thầy thường xuyên.
Mai Đức Phú: Em c̣n nhớ lúc học với thầy Khiết Thầy dạy vẽ cho đệ ngũ trở lên,
Thầy cầm phấn tay trái và vẽ từ phải qua trái Thầy viết hay ǵ cũng dùng tay
trái và viết hay vẽ từ trái qua phải rất hay.
Thầy Hoàng Xuân Thiệu: Em c̣n nhớ chữ trong pḥng giáo sư không Thầy viết “Tất
cả cho Quốc Gia Nghĩa Tử “ viết phông nổi trên một bản gỗ rất đẹp.
Chân Dung Thầy Huỳnh Thành Khiết -
Giáo Sư Hội Họa
Năm mươi năm nh́n lại
Vài ḍng cho kỷ yếu kỷ niệm 50 năm
Thầy Vạn Vật Nguyễn Văn Thơm
1962-1963
Tốt nghiệp ĐHSP, tôi được bổ nhiệm về Nha Khảo Thí, sau đó là trường Hồ Ngọc Cẩn
- Gia Định.
1963-1973
Tôi đến với trường QGNT, đến với các em học sinh gặp hoàn cảnh không may, cha
các em là những chiến binh đă hy sinh cho tổ quốc. Mười năm ở ngôi trường mới
tinh khôi, kiến trúc hài ḥa, mười năm lứa học tṛ hồn nhiên, dễ mến, đáng yêu,
hiếu học mà tôi thường phê trong thành tích biểu là chăm, ngoan, giỏi, tôi có
được biết bao là kỷ niệm đẹp. Ng̣ai công việc giảng dạy ở lớp, tôi cùng các em
có chung những sinh hoạt khác như bán vé số cứu lụt miền trung, cắm trại ở Thủ
Đức ,thăm thương bệnh binh ở Tổng Y Viện Cộng Ḥa, dự trại hè Vũng Tàu.v.v...
Để biết t́nh cảm thắm thiết giữa thầy cô và học tṛ QGNT như thế nào, xin hăy
đọc bài của Cô Vơ Kim Sơn "Qua Cổng Trường Xưa"(đặc san 2005), của Cô Cao Thủy
Tiên "Thư Gởi Học Sinh" (đặc san 2007), của Thầy Đặng Trần Dư "Nghĩa T́nh Thầy
Tṛ" (đặc san 2007), của Tṛ Đặng Bích Ngọc " Viết Về Thầy Hùynh Văn Ân" (đặc
san 2009).v.v...
1973-1975
Tôi được thuyên chuyển về Nha Tu Huấn Giáo Chức để huấn luyện các GS đệ nhất cấp
và đi tu nghiệp ngắn hạn tại Mă Lai.
1975-1981
Đất bằng nổi sóng.
Do cần thầy, tôi được tạm dùng, dạy các "y sĩ" theo chương tŕnh Bổ túc Văn hóa.
C̣n đâu lứa học tṛ vui tươi, t́nh nghĩa, hiếu học ngày nào. Chỉ có không khí ảm
đạm, nghi kỵ, vô cảm, vô t́nh, vô ơn. Mười năm hạnh phúc xưa kia, nay là sáu năm
bất hạnh, hành nghề bất đắt dĩ.
Lứa học tṛ nầy căn bản không có ,thi học kỳ phải được hướng dẫn giải bài thi,
thi tốt nghiệp giám thị được nhắc nhở làm ngơ với bùa phép, giám khảo được đề
nghị "thông cảm".
Thế là các"y sĩ" lên Đại Học Y Khoa, tiếp tục một chương tŕnh nhẹ nhàng, mục
đích là cấp tốc cho ra ḷ những" Bác sĩ Y khoa" để lănh đạo các bệnh viện.
1981-2000
Chán ngán với chương tŕnh BTVH phá sản, với cuộc sống khó khăn, tôi rút lui, tự
cho phép ḿnh "mất dạy". Từ ấy, tôi sống tiềm sinh, làm … thinh, có lúc làm ...
càn, nín thở qua sông.
2000-2013
Được bảo lănh qua Mỹ, tôi không ngờ lại được hội ngộ với những học tṛ QGNT.
Thầy tṛ, tóc xanh ngày xưa bây giờ đă bạc màu.
Màu tóc phai theo thời gian nhưng t́nh nghĩa thầy tṛ thêm thắm thiết, trở thành
những người bạn vong niên thân thiết.
Những mầm non ngày xưa nay đă nẩy mầm, phát triển, trưởng thành xuất sắc trong
nhiều lảnh vực hơn thầy cô cũ rất xa. QGNT nổi tiếng với Nguyễn thị Bích Yến,
với Lê Hồng Đa, với Trần Quảng Nam .v.v…
Dù thành công vượt bậc, các QGNT vẫn một ḷng tôn kính thầy cô, một nét đẹp
truyền thống của văn hóa đông phương nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên ḷng tôi vẫn nghĩ sự cố gắng giảng dạy và t́nh thương đem lại cho các
QGNT chỉ là bổn phận đối với thân phụ của các em mà thôi. Đó là những anh hùng
đă hy sinh xương máu để tôi được yên lành ở hậu phương, để lại cho chúng tôi
những người con ngoan, giỏi mà nay đă tự lực, trưởng thành.
Tôi cảm thấy ấm áp trong chiếc áo QGNT kỷ niệm 2003 dù nay đă sờn và phai màu.
Tôi cảm thấy ấm ḷng khi nâng chiếc tách QGNT kỷ niệm 2005. Tôi cảm thấy hănh
diện khi đeo huy hiệu có bốn chữ Quốc Gia Nghĩa Tử.
Các QGNT thân yêu! Các em xứng đáng là những Quốc Gia Nghĩa Tử Việt Nam, những
đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam.
NVT
Mẹ tôi
(1935-1995)
Viết để tưởng nhớ đến Cô Nguyễn thị Hiếu, giáo sư trường Quốc Gia Nghĩa Tử,
quả phụ cố Trung Tá Nguyễn Tấn Sĩ KD74/CT, Không Quân VNCH
Cô Hiếu và Cô Nga
"Nơi đất khách, mẹ nằm lạnh lẽo
Nén nhang trầm, muôn nẻo tỏa hương
Công ơn nuôi dưỡng ḷng vương
Đôi gịng lệ nhỏ xót thương mẹ hiền"
Một cơn gió lạnh thổi ngang làm tôi vội vă quấn kín lại khăn quàng cổ, co người
trong chiếc áo khoác như để t́m thêm hơi ấm. Mới vừa có trận băo tuyết đêm qua
nên sáng nay vạn vật được phủ 1 lớp tuyết trắng, màu trắng thật tinh khiết làm
sao, tuyết phủ kín trên cây như những cánh hoa tuyết đong đưa theo gió, nh́n
thật đẹp mắt! Hôm nay cả nhà rủ nhau đi thăm mộ mẹ. Loay hoay định t́m cách cắm
hoa vào chậu cho mẹ nhưng tôi chợt nghĩ sao ḿnh không cắm thẳng xuống tuyết.
Tối qua tuyết rơi nhiều, đủ dày để giữ những nhánh hồng đứng thẳng. Những cánh
hồng đỏ thắm vươn lên từ thảm tuyết trắng mịn màng, nh́n như một vườn hồng xinh
đẹp nho nhỏ bao chung quanh chỗ mẹ nằm, thật b́nh yên!
Mẹ tôi sinh tại làng Đ́nh Bảng, Bắc Ninh nhưng đến khoảng 7 tuổi là mẹ đă cùng
ông bà ngoại vào Nam. Vào những năm trước 1954, sự đi lại từ Bắc vô Nam rất dễ
dàng, không ai truy soát giấy tờ, chỉ cần mua vé là xong. Ḍng họ gia đ́nh ông
bà ngoại đến Cần Thơ, xứ gạo trắng nước trong để lập nghiệp. Bà ngoại buôn bán
rất giỏi nên chỉ vài năm sau ông bà ngoại đă có những cơ ngơi ổn định. Mẹ tôi là
con gái duy nhất trong gia đ́nh 7 anh chị em. Ông ngoại tôi rất ham học nên
những người con đều được ông lo cho ăn học tới nơi tới chốn, không hề trọng nam
khinh nữ. Sau khi xong trung học ở Cần Thơ, mẹ tôi được lên Sàig̣n học tiếp
chương tŕnh Pháp ở trường St. Paul, là trường của các nữ tu ḍng, nhờ thế mẹ
tôi đậu tú tài Pháp không khó khăn và sau này mẹ tôi rất giỏi về sinh ngữ Anh
Pháp.
Mẹ tôi gặp ba qua sự mai mối từ người bạn của ông ngoại. Ngày đầu tiên ba mẹ gặp
nhau, mẹ chê ba, nói người ǵ mà đen đủi, ốm nhom, gầy như cây tăm! Ba tôi cao
1m81, bởi vậy sau này bạn bè đặt ba tên là "Sĩ C̣" v́ 2 cẳng dài lêu khêu như
cẳng c̣. Những lần sau, ba tiếp tục đến thăm mẹ và dĩ nhiên là phải qua đợt
phỏng vấn của ông ngoại. Ông ngoại đem thuốc lá và bia ra mời ba dùng nhưng ba
từ chối v́ không biết hút thuốc lá uống bia, ông ngoại gật gù cho điểm cao...
Sau này, khi thành vợ thành chồng rồi mẹ mới vỡ lẽ ra...ba chê bia và thuốc lá
nhạt nhẽo, ba chỉ thích hút cigar và uống Whiskey thôi !!!
Ba mẹ cùng tuổi, cùng tŕnh độ, gia đ́nh môn đăng hộ đối nên t́nh cảm nảy sinh
thật mau...ba mẹ yêu nhau và lấy nhau. Khi đó, ba đă ở trong Không Quân, đóng
quân tại thành phố Nha Trang. Sau đám cưới, mẹ khăn gói theo ba về căn cứ nhưng
vẫn tiếp tục đi dạy học, và thế là 2 người anh của tôi và tôi được chào đời ở
Nha Trang. Tôi được ba đặt tên theo nơi được sinh ra, miền Thùy dương cát trắng...ba
tôi lăng mạn ra phết, hỏi sao mẹ lại không thương ba suốt đời!
Đến năm 1963 th́ ba thuyên chuyển về Sàig̣n và được cấp nhà trong khu cư xá sĩ
quan Huỳnh Hữu Bạc của phi trường Tân Sơn Nhất. Cư xá ngay sát sân bay nên ba
tôi về nhà dễ dàng hơn và chúng tôi lớn lên trong t́nh yêu của ba mẹ. Những lần
ba về phép là cả nhà rộn ră tiếng cười, ba cưng tôi lắm và tôi thường được ngồi
trong ḷng của ba trong bữa cơm (con gái rượu mà!). Thuở đó tôi chỉ độ 4,5 tuổi
nhưng tôi vẫn nhớ những khi ba về c̣n mặc bộ đồ đi bay, tôi rất thích quanh quẩn
lục lọi và ṭ ṃ t́m kiếm cái ǵ ở trong túi bộ đồ bay... v́ có nhiều túi quá...???
Các em tôi cũng lần lượt ra đời nơi tổ ấm của ba mẹ. Mẹ thường nói "trời sanh
voi sanh cỏ"...để sau này mẹ phải một ḿnh lặn lội thân c̣ kiếm cỏ nuôi lũ con
thơ...(trong chiến tranh ai học được chữ "ngờ"!)... Năm 1967, khi mẹ mới sanh em
út tôi được 1 tháng th́ cũng là lúc mẹ nhận được tin dữ. Khi nghe tin ba hy sinh,
mẹ gần như ngất lịm...
"người đi một nửa hồn tôi mất
một nửa hồn tôi bỗng dại khờ" (Xuân Diệu)
Tôi nghĩ mẹ không chỉ mất đi một nửa hồn mà dường như mẹ suy sụp hoàn toàn! Mọi
người xúm xít lo lắng cho mẹ v́ mẹ mới vừa sanh xong. Chúng tôi ngơ ngác khi
thấy nhà ḿnh bỗng dưng đông người, và mọi người ai cũng khóc. Khóc, thương tiếc
cho một người đồng đội, một vị chỉ huy trẻ đă anh dũng hy sinh cho đất nước.
Khóc, xót thương cho một góa phụ trẻ với đàn con thơ nheo nhóc. Khóc, khi biết
ḿnh sẽ không c̣n dịp gặp lại người thân yêu của ḿnh nữa!
Lúc đó mẹ chỉ mới 33 tuổi, tay ẵm đứa con mới sanh vừa đầy tháng tuổi, mẹ c̣n
quá trẻ để tin rằng ba đă thật sự ra đi vĩnh viễn. Nh́n góa phụ trẻ và 6 mái đầu
thơ chít vành tang trắng, ai cũng lắc đầu thương xót, anh lớn của tôi lúc đó 8
tuổi và em út tôi chỉ được 1 tháng tuổi.
"Con không cha như nhà không nóc,
con không mẹ như ṇng nọc đứt đuôi" (ca dao VN)
Chiến tranh đă cướp đi cái nóc của ngôi nhà hạnh phúc của chúng tôi. Cây cột trụ
của căn nhà đă không c̣n th́ rồi chúng tôi sẽ ra sao đây???!!! Khi c̣n sinh thời
ba là thiếu tá tư lệnh phó phi trường Trà Nóc Cần Thơ, ba luôn rộng răi giúp đỡ
bạn bè và mọi người. Khi ba nằm xuống gia tài để lại cho mẹ là 6 đứa con thơ dại
và số tiền tử ít oi. Chúng tôi c̣n quá nhỏ để có thể chia sẻ với mẹ gánh nặng
gia đ́nh, đôi vai gầy của mẹ dường như thêm nặng trĩu! Tôi thật sự kính phục mẹ
v́ mẹ đă không ủy mị nằm đó mà than khóc. Sau tang lễ của ba, mẹ lao vào công
việc. Đôi mắt đẫm lệ của mẹ giờ đây đă lau ráo, chỉ c̣n lại những tia nh́n cương
quyết dành cho tương lai!
Gom góp tiền bạc cùng số tiền tử nhận được, mẹ chỉ đủ tiền mua chiếc Subaru.
Chiếc xe này đă là phương tiện di chuyển cho mẹ đi làm và đưa đón chúng tôi đi
học, nó đă gắn liền với chúng tôi cho đến ngày mất nước. Nhờ có chiếc xe, mẹ đă
nhanh chóng bắt nhịp với hoàn cảnh mới. Mẹ trở lại đi dạy ở trường Lê quư Đôn,
hai anh tôi cũng học ở đây nên cũng tiện cho mẹ vừa đi làm vừa đưa đón con đi
học.
Đến năm 1969, mẹ tôi chuyển về dạy ở trường phổ thông Quốc Gia Nghĩa Tử. Tôi đă
không c̣n có dịp để hỏi mẹ, sao mẹ lại quyết định về dạy ở đây? Nhưng, tôi tin
rằng mẹ sẽ nói v́ mẹ yêu nghề giáo và nhất là mẹ yêu những đứa con đă không c̣n
cha, giống như những đứa con của mẹ! Tấm ḷng của mẹ thật bao la, mẹ thương
những đứa học tṛ đă mất đi t́nh thương của người cha và những người mẹ phải vất
vả một ḿnh nuôi con thơ. Thỉnh thoảng tôi lại thấy mẹ chở về nhà một vài anh
chị học sinh QGNT, ở nhà chơi cuối tuần xong lại chở về trường, có lúc mẹ mở
rộng cửa cho học sinh QGNT từ quê lên tá túc trong khi chờ đợi được xếp pḥng
nội trú, hay đôi khi mẹ giúp chút đỉnh tiền cho những người đàn bà nghèo cùng
cảnh ngộ... Mẹ thường nói "nh́n lên th́ ḿnh không bằng ai nhưng nh́n xuống th́
ḿnh vẫn c̣n hơn nhiều người. Mẹ may mắn được ăn học và có nghề nghiệp ổn định
nên khi ba mất mẹ không phải bối rối khốn khó như những người chỉ sống bằng đồng
lương của chồng!" Tấm ḷng nhân từ của mẹ trải ra cho mọi người, lúc nào tôi
cũng thấy mẹ giúp đỡ những người khốn khó, mẹ cứ nói "thôi làm phước, để đức lại
cho con"...mặc dù mẹ vẫn phải chạy gạo để nuôi chúng tôi mỗi ngày.
Tôi không hiểu làm thế nào, mặc dù bận rộn với sinh kế, mẹ phải đi dạy thêm
trường tư để đủ chi tiêu, mẹ vẫn dành thời giờ tham gia những công tác xă hội.
Mẹ đảm trách chức vụ hội phó Hội Quả Phụ Tử Sĩ VNCH, trưởng khu nội trú nữ của
trường QGNT... Những cuộc ủy lạo chiến sĩ hay giúp đỡ nạn nhân băo lụt cũng
không hề thiếu bóng mẹ. Với dáng dấp thanh tú quư phái cùng nụ cười hiền lành,
bất cứ ai có một lần tiếp xúc với mẹ đă h́nh như thấy nỗi đau của ḿnh như dịu
lại. Nếu so về sắc đẹp có lẽ mẹ sẽ thua xa các hoa khôi nhưng ở mẹ có sự thu hút
lạ kỳ. Ở tuổi 33 mẹ c̣n trẻ để có thể đi thêm bước nữa, tuy dưới nách có 6 con,
mẹ vẫn c̣n đầy vẻ quyến rủ và dĩ nhiên mẹ có nhiều người theo đuổi. Trước những
cám dỗ ŕnh rập, mẹ vừa mềm mại nhưng thật cứng rắn từ chối sự tán tỉnh của
nhiều người, dường như không ai có thể thay thế h́nh bóng ba trong tim của mẹ!
Mỗi lần có đợt trao trả tù binh, tôi lại thấy mẹ chăm chú ḍ từng tên, với hy
vọng có tên ba trong danh sách những người được trả về từ Bắc Việt. Tuy đó chỉ
là chút lóe của tia hy vọng, nhưng điều đó, lại thêm sức cho mẹ vượt qua những
thử thách và giữ tṛn sự chung thủy với ba. Ngày ba hy sinh, khi mẹ đến nơi th́
mọi người đă tẩm liệm cho ba, mẹ đă không c̣n dịp nh́n mặt ba lần cuối. Mẹ vẫn
hy vọng ba chỉ mất tích, c̣n sống sót đâu đó hay bị bắt làm tù binh ở Bắc Việt
và sẽ trở về xum họp với gia đ́nh một ngày không xa. Có ai thấu hiểu được nỗi cô
đơn của người góa phụ trăn trở trong đêm dài, không người chia sẻ buồn vui,
những giọt nước mắt khóc thương chồng thầm lặng, rồi vội vă nuốt ngược trở vào
tim, để ngày mai với vỏ ngoài cứng rắn đối diện với cuộc sống?!
"Mồ côi cha ăn cơm với cá,
mồ côi mẹ liếm lá đầu đường" (ca dao VN)
Tôi không biết nếu đổi ngược lại, ba phải một ḿnh nuôi 6 anh em tôi th́ ba có
c̣n giữ sự thủy chung và lo lắng cho anh chị em tôi đầy đủ hay không? Đồng lương
dạy học của mẹ thật khiêm tốn nhưng chúng tôi ra đường lúc nào cũng đầy đủ tươm
tất. Chúng tôi được đi học ở những trường tốt, những lớp học đàn, những sinh
hoạt hướng đạo "sói con", "chim non"... mẹ vẫn dành th́ giờ để đưa đón chúng tôi.
Mẹ vừa làm cha vừa làm mẹ, làm sao kể hết được những sự hy sinh của mẹ dành cho
chúng tôi, cả tuổi xuân của mẹ đều dồn hết cho đàn con, mong sao chúng tôi sẽ
khôn lớn trở thành những người ích lợi cho đất nước.
Khi biết tôi đậu đợt thi tuyển vào trường Tổng Hợp Quốc Gia Nghĩa Tử, mẹ rất vui
v́ biết đă lựa chọn đúng trường cho tôi. Mẹ thường nhắc nhở tôi "công dung ngôn
hạnh " làm đầu. Của hồi môn mẹ dành cho tôi không phải là tiền bạc mà đó là
những lời dạy dỗ, những kiến thức... và đó là gia tài không hề hư mất bao giờ!
Tôi c̣n quá nhỏ để hiểu hết những ưu tư của mẹ nhưng tôi rất thích ngôi trường
mới này. Ở đây, tôi có những người bạn cùng cảnh ngộ mà tôi không phải mặc cảm
khi bị hỏi về ba...Tuy tôi rất hănh diện về ba tôi, là một người hùng của đất
nước, nhưng điều đó làm sao phủ kín được những giây phút buồn tủi khi thiếu vắng
t́nh thương của người cha!
Dưới mái trường TH QGNT này, ngoài những môn học phổ thông b́nh thường, buổi
chiều tôi được học thêm những lớp Kinh Tế Gia Đ́nh. Từ cách ăn nói, đứng ngồi
khi giao tế, những đường thêu, mũi kim may hay cách nướng những ổ bánh thơm lừng...,
tôi đă được các cô tận t́nh dạy dỗ. Sau này, những bài học quư giá đó đă là hành
trang cho tôi bước vào đời, giúp đỡ tôi có thể xoay xở khi gia đ́nh tôi chuyển
qua giai đoạn kinh tế khó khăn nhất...đó là những năm tháng sau 30 tháng tư
1975.
Biến chuyển sau tháng tư năm 75 đă làm mái tóc mẹ điểm thêm nhiều màu bạc trắng,
những nét nhăn cùng ánh mắt ưu tư mỗi ngày một nhiều hơn! Mẹ tôi quyết định ở
lại mặc dù chúng tôi có rất nhiều cơ hội để ra đi. Đă có những người bạn tốt của
ba, trước lúc cất cánh c̣n nài nỉ mẹ gởi hai anh trai tôi đi cùng nếu mẹ muốn ở
lại... Mẹ như gà mẹ túc đàn con dưới cánh, cho dù như thế nào th́ chúng tôi vẫn
ở bên mẹ! Tôi không hề trách những quyết định của mẹ, mẹ vẫn nuôi hy vọng ba trở
về từ lao tù Bắc Việt để gặp lại đầy đủ các con, mẹ vẫn mong đợi ngày đoàn tụ
với những người thân c̣n ở lại miền Bắc đang theo đuổi lư tưởng Cộng Sản … Giống
như mọi người khác, mẹ nghĩ chiến tranh đă chấm dứt, ḥa b́nh yên ổn cuối cùng
rồi cũng đến với dân tộc Việt!
Thật là mỉa mai làm sao khi tất cả sự trông đợi đều đi ngược lại! Chủ nghĩa xă
hội, chế độ cộng sản đă biến con người trở thành những người tàn nhẫn không c̣n
t́nh thương, họ lạnh lùng tham lam và trở thành những kẻ nói láo, ăn cướp ngay
cả với người thân trong gia đ́nh. Mẹ tôi thất vọng, chúng tôi thất vọng! Ngày
giải tỏa nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, mẹ tận mắt nh́n xác ba trong bộ đồ bay, tuy
thân xác đă thối rửa nhưng vẫn c̣n nh́n được dáng dấp cao lớn ngày nào...mẹ tôi
không c̣n lưu luyến chờ đợi nữa!
Làm sao tả hết được sự cực khổ của mẹ tôi vào những năm sau 75. Mẹ bị thuyên
chuyển về dạy học ở Hóc Môn, phương tiện di chuyển chính bây giờ là xe lam, sáng
mẹ phải chen chúc đón xe thật sớm và đến chiều tối mới về. Đồng lương nhận được
từ nhà nước thật khiêm tốn, chúng tôi giờ mới biết thế nào là độn khoai, độn
bobo và gạo mốc! Đồ đạc dần dần vơi đi đổi lại chút gạo cho chúng tôi mỗi ngày.
Anh tôi đau xót thương mẹ và bầy em thơ, đă muốn bỏ học để đi đạp xích lô phụ
giúp gia đ́nh. Mẹ tôi nhất định không cho, dù chật vật nghèo khó như thế nào đi
nữa, mẹ vẫn khuyến khích chúng tôi chăm học... và chúng tôi vẫn tiếp tục đến
trường! Tôi không hề tiếc những ngày bị kẹt lại v́ bởi đó tôi hiểu rơ được sự
tàn nhẫn lừa đảo của chế độ, tôi chứng kiến những đứa con mù quáng đi tố cha mẹ
trong những đợt đánh tư bản...để rồi đổi lại vài tờ giấy biểu dương! Tôi lớn lên
trong lúc đất nước đang trăn trở trong sự nghèo khó...và 38 năm trôi qua quê
hương tôi cũng vẫn c̣n nghèo, con người ngày càng sa đọa vào hút sách, rượu chè,
trai gái... Chế độ Cộng Sản đă thành công trong việc đào tạo nên những con người
tàn nhẫn, tham lam, ích kỷ, sẵn sàng đạp lên kẻ khác để t́m chỗ đứng cho riêng
ḿnh. Đằng sau những sự phồn hoa giả tạo là sự nghèo khó khốn cùng của người dân.
Những cô gái sẵn sàng bán ḿnh sang Trung Quốc, Hàn Quốc...làm vợ chuyền tay cho
cả gia đ́nh, mà vẫn bị ngược đăi đánh đập và rồi sau đó không biết ai là cha của
con ḿnh...! Sau tháng tư 1975, quê hương tôi thực sự có ấm no hạnh phúc hay
không (???), hay lại tiếp tục cảnh gia đ́nh tan tác, vợ tiễn chồng đi cải tạo
không hẹn ngày về, mẹ gạt nước mắt khóc thương con bỏ ḿnh nơi biển Đông...!???
Cực khổ chật vật với từng bữa cơm, mẹ tôi luôn cương quyết ở lại thành phố
Sàig̣n mặc dù họ cố khuyến dụ, lúc hăm dọa lúc ngọt ngào, dụ dỗ gia đ́nh tôi đi
khu kinh tế mới. Với lư lịch của ba, các anh tôi không phải đi nghĩa vụ (bộ đội)
nhưng phải đi lao động đào mương, trồng khoai ḿ... Tôi nhớ 1 lần anh tôi, tuy
đang là học sinh nhưng vẫn bị ép buộc "xung phong" đi lao động trồng khoai ḿ,
sau 1 tuần trở về dường như tôi gặp 1 người ốm đói nào đó, gương mặt hốc hác đen
đúa, hai mắt đỏ ngầu...bởi v́ suốt 1 tuần lễ họ chỉ cho ăn toàn khoai ḿ và đọt
khoai ḿ..., may mà anh tôi đi ít ngày nên chỉ bị ngộ độc nhẹ thôi!
Nói làm sao hết những sự cực khổ trong những ngày c̣n kẹt lại, cho dù hoàn cảnh
như thế nào tôi vẫn thấy mẹ lạc quan và luôn là con chim đầu đàn hướng dẫn chúng
tôi từng bước. Mẹ luôn dạy chúng tôi yêu thương và mở ḷng ra với mọi người. Sự
lạc quan của mẹ làm cho chúng tôi không ngừng hy vọng cho 1 ngày tươi sáng hơn.
Đúng là "ở hiền gặp lành"! Lúc gia đ́nh chúng tôi gần như kiệt quệ, không c̣n ǵ
để bán nữa th́ chúng tôi nhận được sự tiếp trợ, những thùng quà từ Pháp, Mỹ gởi
về gói ghém t́nh thương...cứu sống người thân c̣n kẹt lại! Tôi dùng chữ "cứu
sống" thật sát nghĩa v́ nó đă giúp mẹ tôi kịp thời ra Bắc thăm nuôi các cậu. Cực
khổ lội suối băng rừng, đi sâu vào nơi cải tạo, mẹ tôi phải mướn thêm người dẫn
đường và phụ gánh đồ. Có lúc quá mệt mỏi và không mang vác nổi, mẹ đă tính bỏ
lại bớt đồ...nhưng nghĩ đến em ḿnh, mẹ tôi lại tiếp tục bước đi. Nếu mẹ tôi đến
chậm vài ngày có lẽ cậu tôi đă bỏ ḿnh nơi núi rừng Thanh Hóa, Vĩnh Phú v́ bịnh
tật và đói! Trong mười năm, từ Bắc vào Nam, mẹ tôi đều đặn thăm nuôi các em ḿnh
mỗi tháng cho đến người cuối cùng được thả về. T́nh chị thương em, t́nh ruột
thịt máu mủ, lại tiếp tục chồng chất thêm lên đôi vai c̣m cơi của mẹ!
"Nếu cột đèn biết đi nó cũng đi", nhận rơ thực chất tàn bạo của chế độ XHCN, mẹ
tôi quyết định rời xa quê hương hầu cho tương lai anh em tôi không bị nhận ch́m.
Qua bao lần vượt biên thất bại, cuối cùng anh tôi cũng đến bến bờ tự do và cả
gia đ́nh chúng tôi được định cư 3 năm sau đó. Lại một lần nữa mẹ phải làm lại từ
đầu! Các anh em chúng tôi thay phiên nhau đi làm đi học, sống đùm bọc lẫn nhau,
cố gắng thích nghi, ổn định trong cuộc sống mới. Để làm gương cho chúng tôi, mẹ
ghi tên học lại College về Medical Assistant, với tuổi 58, mái tóc bạc trắng, mẹ
trở lại học đường. Thời gian này chúng tôi cũng đă xong chương tŕnh cử nhân,
anh em tôi bắt đầu có công việc ổn định. Chúng tôi vui mừng v́ thời cực khổ đă
sắp qua, chỉ mong mẹ sẽ được an nhàn hưởng tuổi già... ngờ đâu thử thách lại đến!
Mẹ bị ung thư, chứng bịnh nan y của thời đại!
Chúng tôi bất lực nh́n thân thể mẹ ngày càng hao ṃn bởi bịnh tật. Mỗi đợt vô
thuốc Chemo là cơ thể mẹ lại vật vă quằn quoại v́ ảnh hưởng của thuốc. Mái tóc
dầy của mẹ giờ chỉ c̣n lưa thưa và cuối cùng phải cạo sạch. Có những lúc tôi bắt
gặp ánh mắt buồn lo của mẹ nhưng chỉ thoáng qua để dành cho nụ cười an ủi chúng
tôi. Làm sao chúng tôi san sẻ được những cơn đau mẹ trải qua, chúng tôi chỉ biết
cầu xin Thượng Đế cho mẹ được chữa lành...và cuối cùng phép lạ đă đến. Mẹ không
c̣n phải vô thuốc nữa và vui mừng báo tin lành bịnh!!!
Mẹ đi hốt thuốc bắc để uống bổ lại sức, tóc mẹ mọc dài ra, vẫn mượt mà như ngày
xưa. Gia đ́nh chúng tôi thật hạnh phúc khi thấy mẹ mạnh khỏe trở lại và bàn tính
những chương tŕnh cho mẹ đi du lịch. Anh tôi an tâm, chuẩn bị tổ chức đám cưới.
Mẹ cười rạng rỡ trong ngày vui của anh. Mẹ tôi tự hào có những người con thành
đạt và giờ đây sẽ rời tổ ấm của mẹ tung cánh vẫy vùng giúp ích đời.
Sau đám cưới anh tôi 1 tháng th́ mẹ đột nhiên yếu, bỏ ăn. Sang ngày hôm sau, thứ
bảy mẹ dường như khỏe lại, đ̣i ăn và chuyện tṛ với chúng tôi. Chúng tôi mong
ngóng đến thứ hai sẽ dẫn mẹ đi khám bác sĩ lại... ngờ đâu tối đó, mẹ đă vĩnh
viễn rời xa chúng tôi. Mẹ ra đi thật nhẹ nhàng trong 1 giấc ngủ. Chúng tôi bàng
hoàng sửng sốt! Tại sao???!!! Mẹ chúng tôi đă mạnh khỏe rồi mà, tại sao lại xảy
ra như vậy???!!!
T́m đến vị bác sĩ đă theo dơi chữa trị cho mẹ th́ chúng tôi biết được sự thật.
Bịnh mẹ đă đến thời kỳ cuối, ông đă từ chối chữa trị tiếp cho mẹ v́ thấy không
c̣n hy vọng! Mẹ đă tiếp nhận sự thật một cách can đảm và một lần nữa, mẹ im lặng
giữ riêng nỗi buồn để đem đến cho chúng tôi niềm vui trọn vẹn. Ḷng mẹ thật bao
la, t́nh thương mẹ vô bờ bến! Cả cuộc đời mẹ hy sinh dành trọn cho chúng tôi,
chúng tôi thật hạnh phước khi được t́nh thương mẹ bao phủ. Mẹ ơi, chúng con đă
không c̣n cơ hội để báo hiếu cho mẹ. Những lúc cực khổ mẹ lúc nào cũng kề bên
chịu đựng bảo bọc cho chúng con, giờ chúng con nên người th́ mẹ đă không c̣n!
Mẹ là tiêu biểu cho bao người mẹ Việt Nam, oằn người gánh chịu sự thiệt tḥi từ
chiến tranh. Cuộc đời mẹ lo buồn cực khổ nhiều hơn vui hưởng. Biết bao người góa
phụ lặng lẽ thân c̣ nuôi con khôn lớn, làm sao chúng con đền bù lại cho mẹ đây?!
Đứng lặng trước mộ mẹ, h́nh ba lúc c̣n trẻ và h́nh mẹ lúc đă xế chiều. Hai mươi
tám năm mẹ chung thủy chờ đợi ba, giờ mẹ đă trở về ḷng đất, yên nghĩ b́nh yên,
có lẽ mẹ đă được đoàn tụ với ba... Sẽ không c̣n những lo toan nhọc nhằn, sẽ
không c̣n những đau đớn vật vă v́ bịnh tật, chỉ c̣n lại chúng con với nỗi nhớ
thương mẹ vô vàn! Mẹ ơi, chúng con sẽ ghi nhớ những lời dạy dỗ của mẹ và sống
xứng đáng như sự mong muốn của mẹ.
Con của mẹ,
Thùy Trang
April 2013
HỒI TƯỞNG VỀ MỘT MÁI
TRƯỜNG
Là một giáo sư, được động viên vào sĩ quan QLVNCH. Sau tết Mậu Thân, tôi
được biệt phái về Viện Giáo Dục QGNT tháng 11/1968, và được viện Giáo
Dục QGNT bổ nhiệm phụ trách pḥng Công kỹ nghệ của trường THQGNT cùng
với GS Ôn Tấn Lượng.
Đến trường TH, mở cửa pḥng ra, một quang cảnh hỗn độn, dụng cụ máy móc
ngổn ngang, tất cả đều do cơ quan giáo dục của Hoa Kỳ viện trợ. Tôi và
thày Lượng phải sắp xếp lại những dụng cụ máy móc, dùng để dạy mộn nào,
th́ xếp chung lại với nhau cho gọn gàng, ngăn nắp. Nhiệm vụ của pḥng
công kỹ nghệ là dạy các môn: kỹ nghệ họa, mộc, g̣, hàn, máy dụng cụ, cơ
khí, điện. Tất cả các môn đều có máy móc và dụng cụ (riêng môn máy dụng
cụ và cơ khí th́ chưa v́ thiếu nhà xưởng và dụng cụ giảng dạy).
Những năm đầu chưa tổ chức giảng dạy, pḥng công kỹ nghệ phụ trách dạy
cho các em thuộc trường Phổ thông, muốn trau dồi thêm nghề nghiệp th́
ghi danh theo học. Ngoài pḥng công kỹ nghệ, trường c̣n có các ngành học
khác như: kế toán, đánh máy, ấn loát, kinh tế gia đ́nh (dành cho nữ
sinh). Mục đích của trường TH là đào tạo một học sinh, sau khi học hết
chương tŕnh (lớp 12-lấy bằng tú tài TH), nếu không vào được đại học,
các em có đủ tŕnh độ, khả năng làm được những công việc như: thư kư
đánh máy, nhân viên nhà in, phục vụ kinh tế gia đ́nh cùng các ngành nghề
chuyên môn khác: thợ mộc, g̣ hàn, cơ khí, điện, máy công cụ, đồ họa ...
Chương tŕnh học của trường là theo chứng chỉ, cho nên khi đến lớp 12,
phải hoàn tất các chứng chỉ của 3 năm học cuối mới được cấp văn bằng Tú
tài TH. Trường THQGNT khai giảng do thày Trần Ngọc Hồ làm Hiệu trưởng,
thày là người luôn sát cánh cùng với các thày cô của trường, hoạch định
chương tŕnh giảng dạy sao cho việc tiếp thu tốt nhất cho học sinh. V́
đây là 1 chương tŕnh hoàn toàn mới, do cơ quan giáo dục của Hoa Kỳ tài
trợ, giai đoạn đầu gặp nhiều khó khăn, thày Hiệu trưởng luôn động viên
các thày cô cố gắng hoàn thành nhiệm vụ giảng dậy, giải quyết hết sức
t́nh lư với các sự cố. Thày luôn tiếp xúc thân thiện và yêu thương học
tṛ, nên được sự mến mộ từ các em.
Rồi biến cố 1975 xảy đến, thày cô và các em mỗi người một ngă! Tôi phải
rời khỏi ngôi trường thân yêu mà ḷng không khỏi bồi hồi cảm xúc, ngôi
trường với hơn 7 năm gắn bó, biết bao nhiêu kỷ niệm. Đến 24/6/75 tôi
phải đi theo lệnh gọi (cái gọi là cải taọ!), thày tṛ kể từ ngày ấy lại
càng xa hơn. Ở trong trại "cải tạo", lúc nào tôi cũng nhớ và nhắc đến
các em với bạn cùng cảnh ngộ. Ngày tháng trôi đi, năm này đến năm khác
kéo dài măi trong trại tù, và rồi một ngày nào đó tôi cũng phải được măn
hạn tù.
Sau 20 năm, tôi cũng được trở lại Sài g̣n, mọi thứ đổi khác nhiều quá,
tên đường cũng đổi, quang cảnh cũng đổi, và rồi biết bao biến đổi khác.
Ngôi trường nay đi bên ngoài, nếu không chú ư th́ cũng chẳng biết ở đâu,
v́ những ngôi nhà cao che khuất và trường cũng đổi tên. Ở Sài g̣n hơn 10
năm sau khi ra tù, tôi không gặp được ai nữa kể cả thày cô, các em học
sinh sau bao năm xa cách, nay các em đă trưởng thành và hoạt động trong
mọi lănh vực và nghề nghiệp. Nhưng trong rủi lại có cái may, khi ở trại
tù Xuân Phươc - Đồng Xuân - Phú Yên, tôi gặp em cựu học sinh QGNT cùng
chung trại, em cũng nh́n ra được tôi, thế là thày tṛ cùng hội ngộ cùng
nhau, nhờ đó mà sau này tôi gặp lại được các em sau 35 năm xa cách.
Nói đến các em ở Sài g̣n,tôi lại nhớ đến các em ở Cần thơ. Trường QGNT
Cần thơ tọa lạc trên mảnh đất nằm sát bên con đường vào Nghĩa trang quân
đội Cần thơ, trên con đường Cần thơ đi B́nh thủy. Tôi và thày Lượng lo
mọi công việc để chuẩn bị tổ chức ngày khai giảng năm học đầu tiên
1971-1972 do thày Chuyên từ trường trung học Long Xuyên được bổ nhiệm
làm Hiệu trưởng. Sau khi có thày Chuyên rồi, tôi và thày Lượng lại trở
về trường THQGNT Sài g̣n. Trường QGNT Cần thơ cũng có khu nội trú, dành
cho các em thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau biến cố 1975, các em
bây giờ đang ở đâu, mà trong số các em về dự lễ TATC, hầu như đều có mặt
chỉ vắng bóng thày cô và học tṛ QGNT Cần thơ?! Thày cô và các em hăy
liên lạc về ...
Nếu kể lại sau 75 đầy sóng gió, đă đè nặng lên hai vai thày cô và các
em, th́ kể sao cho hết, v́ chúng ta là người thua cuộc! Người thua cuộc
luôn bị thiệt tḥi về mọi mặt, nhất là chính trị và kinh tế. Hồi tưởng
lại thời gian qua, dưới mái trường thày tṛ vui vẻ, hồn nhiên của một
ông thày trẻ và đám học tṛ nhỏ ... C̣n nay, thày tṛ ta cũng vui vẻ hồn
nhiên của một ông thày già nua, học tṛ cũng đă có cháu nội, cháu ngoại,
thôi th́ đây cũng là cuộc vui.
Thày Tâm
Thầy và Tṛ.
_______________________Thầy Nguyễn Thành Vân KT
"Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy..”
( NĐ ) không phải chỉ "trông thấy" mà chúng ta đă nếm đủ mùi hỉ, nộ, ái,
ố của kiếp nhân sinh vô thường này. Thời gian, thời gian xóa mờ nhiều
thứ, chỉ c̣n tồn tại một thứ T̀NH không có TIỀN. Nhưng nếu T̀NH mà hiện
lên bởi chữ TIỀN th́ t́nh ấy sẽ biến đổi ra sao ?! Tôi muốn nh́n lại
cuộc sống của ḿnh, nghiệm lại tác động của hai thứ t́nh và tiền.
Là kẻ được dạy học ít nhiều ở hai chế độ cũ và mới.
Cái ǵ mới cũng phải tốt, phải hay phải đẹp hơn cái cũ, hy vọng vậy.
Nhưng thực tế tôi đă gặp, đă nghe, đă thấy, tôi không thể phán đoán nó
hay, dở, tốt, xấu. Những mảnh đời tôi đă sống, đă khóc, đă cười. Là kỷ
niệm, là kư ức vui buồn hạnh phúc khổ đau. Thật riêng tư, nhưng trong
riêng tư đó có các em.!
Tôi đến xin đạy học tại trường Kỹ thuật Q vào tháng
8 năm 1968, sau khi cởi trả áo lính, giă từ vũ khí, giă từ chiến trường
quái ác. Thầy Hiệu trưởng T T Thông bắt tôi đạy thử. Tôi giảng bài "Giải
trực tiếp phương tŕnh bậc 2 : ax2 + bx + c = o". Trước khi vào quân đội,
tôi đă dạy toán trung học 2 năm tại Bảo Lộc và Minh Ḥa, nên điều này
không gây khó cho tôi, và tôi được thâu nhận ngay. Thầy Hiệu Trưởng giao
hết Toán, Lư, Hóa hai lớp Đệ Lục và Đệ Ngũ, Trường mới mở năm thứ hai
nên chỉ có 1 lớp Đệ Ngũ. Đào Gia Ất làm lớp trưởng, lớp có mười mấy em :
Phạm Trường Thọ, Nguyễn Ngọc Giao, Hoàng Phan Cư, Thân, Lạc, Phi Hùng (
? ) Đồng…….Lớp Đệ Lục nhiều hơn, Lưu Mộng Hoàng, Nguyễn Duy Hy, Nguyễn
Duy Kỷ, Đinh Văn Định, Ngô Công Uẩn...……..( không nhớ nổi ).
Năm học 68- 69 có hai lớp Kỹ Thuật Toán, Thầy Bùi
Dă dạy văn, Thầy Nguyễn Khoan Hồng đạy Kỹ nghệ họa, Cô Đỗ Thị Phụng (
cùng nhận việc một lúc với tôi ) đạy Anh Văn, vài tháng sau Thầy Ngô Đức
Hải về dạy Lư Hóa, Tôi phụ trách môn Toán, Thầy Tâm Giám Học. Ở xưởng
tôi không nhớ rơ lắm, chỉ nhớ Thầy Nguyễn Ngọc Anh dạy Mộc, Thầy Thành
dạy Điện, Thầy Phạm Văn Ḥa dạy Điện, Thầy Bùi Văn Đắc làm Tổng Giám Thị,
và hiện Thầy đă”mất tích“!. Văn pḥng có Anh Thành, Cô Ánh Thư Kư, Bác
Đường... và nhiều Thầy Cô khác nữa...
Được dạy học, một nghề tôi mơ ước từ khi c̣n đi học,
hơn nữa lại dạy môn tôi thích. Trường ḿnh nhỏ nên thật ấm cúng. Ấm như
một Gia đ́nh, mà Gia đ́nh Q thật sự. Các Thầy đa phần là cựu quân nhân,
hoặc QN biệt phái, các Cô ít nhiều cũng có quan hệ nhà binh. Phần tôi,
sau những ngày tháng lăn lộn trên chiến trường khốc liệt, lửa đạn lấy đi
một phần thân thể, không c̣n chiến đấu được nữa. Về đây dạy các em, nh́n
các em tôi thấy có một điều ǵ ràng buộc, những đứa trẻ mồ côi cha,
những người đi trước tôi, và là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. H́nh
ảnh họ chập chờn trong tôi.
Thật t́nh tôi chưa được qua một lớp sư phạm nào.
Chỉ học ”Lănh đạo Chỉ huy” ở quân trường lớn nhất, và cũng khe khắt
nhất thời bấy giờ. Trên 50 năm về trước, tôi học Đệ tam B Ban Toán.
Trường Vơ Tánh Nha Trang, Thầy Bửu Cân dạy tôi :”Trẻ con đến trường
không phải để học, mà để học cái cách học _ L’enfant ne vient pas a`
l’e’cole pour apprenđre, mais pour apprenđre a` apprenđre _ Tôi theo lời
dạy của Thầy tôi, hướng dẫn các em.
Tôi không bắt các em học thuộc ḷng, rập khuôn theo
các bài mẫu, giải sẵn, các em phải tự soạn bài, tự t́m giải đáp cho các
vấn đề, từ dễ đến khó. Môn toán quá quan trọng, nhất là ban Kỹ Thuật
Toán. Nhưng đạy Toán là dạy thế nào đây ? Giáo Sư Nguyễn Văn Trường viết
”dạy Toán mà chỉ nhắm vào các bài mẫu, sự luyện thi, chiếm bằng cấp để
sống nhờ bằng cấp, tức là đào tạo những con người vị kỷ, thụ động, muốn
hưởng thụ trong một xă hội nghèo đói !... Dạy Toán một cách đứng đắn th́
những đề mục ghi trong chương tŕnh, những định đề, định nghĩa, định lư
có thể ch́m trong trí nhớ, nhưng niềm tự tin, tính ngay thật, kiên nhẫn,
tŕ chí, các phương pháp suy luận, phân tích, tổng hợp, thói quen t́m
ṭi, thứ tự… mà Toán học đ̣i hỏi, sẽ tồn tại măi trong con người… giúp
con người giải quyết được những vấn đề lớn nhỏ hằng ngày…” Toán là suy
luận. Từ định đề, định nghĩa, định lư…đến các định lư khác. Tôi muốn các
em phải có tinh thần tự lập, tự chủ,, không nô lệ, không sợ hăi, phải
ngay thẳng, chính xác. Chính xác từ các dấu bằng, dấu cộng, đấu trừ, dấu
gạch ngang phân số. Và vốn bản chất nhà binh nên tôi có phần nghiêm khắc
với các em !. Đă có những lần xé vở soạn Toán của các em, phạt quỳ gối,
kể cả cán chổi long gà vào mông các cậu lười soạn bài. Trái với sư phạm
thật, nhưng mong các em hiểu cho chỉ v́ muốn các em học giỏi. Và các em
đă học giỏi thật., với 4 năm liền các em thi Tú Tài 2 kỹ Thuật đậu
100%.. Thi vào Bách khoa, Sư phạm Kỹ Thuật các em đều đậu nhiều. Các
Thầy Cô trường ḿnh có giấy khen của Bộ Giáo Đục, đó là phần thưởng lớn
nhất của tôi.
Năm học 69-70 Trường ḿnh thay đổi nhiều. Thầy Hiệu
Trưởng chuyển công tác về Trường V.B.Q.G. Thầy Cự làm Hiệu Trưởng. Thầy
Huỳnh Hữu Tâm Giám học cũng được Thầy Đỗ Đại Thanh Vân về thay, Các lớp
học được mở thêm. Ngoài Kỹ Thuật Toán, c̣n có Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp, Kỹ
Thuật Nữ Công Gia Chánh. Các Thầy Cô cũng được tăng cường nhiều. Cô
Triệu Thị Chơi, Cô Trầm Ngọc Tuyết, Cô Nguyễn Thị Xưng Huê, Cô Nguyễn
Thị Thanh Long, Cô Ḥa đạy Lư Hóa, Thầy Nguyễn Văn Hồng, Thầy Ninh Thế
Việt đạy pháp ngữ, Thầy Đỗ Trọng Ḥa, Thầy Phan Tấn Chữ đạy Điện Tử,
Thầy Huỳnh Thanh Hải, Thầy Nguyễn Cao Mỹ Kỹ Nghệ Sắt, Thầy Vơ Phú Cường,
Thầy Nguyễn Thế Thọ, Thầy Vương Thành Phát, Thầy Nguyễn Hữu Phi, Thầy
Thành ( Điện) Thầy Thông ( Ô Tô ). Trường ḿnh càng đông càng vui. Thầy
Cự chuyển công tác khác, T T Đặng Trần Đư chuyển về làm Hiệu Trưởng, bao
nhiêu công việc Trường phần lớn Thầy Đỗ Đại Thanh Vân quán xuyến. Năm
sau Thầy Huỳnh Sơn Cương về làm Hiệu Đoàn Trưởng.
Thầy Giám Thị Tâm với tôi cũng có một kỷ niệm nhỏ.
Hôm đó, h́nh như đâu năm học 70-71, tôi vào Trường, Thầy đưa cho tôi bài
làm của em Đàm
Quang Mai bảo tôi chấm. Đây là bài toán thi vào lớp
10 Kỹ Thuật Toán. Tôi thấy em không làm được nên cho 00 ! Thầy bảo : ”Ư
chết, nó là cháu nội của Đại tá Đàm Quang Yêu, bạn thân của Bác Sỹ Viện
Trưởng, mà sao Bạn cho điểm vậy ?” Tôi cười bảo : ”Cho nó vào học là
quyền của Bạn, nó không làm bài được, tôi cho 00 điểm là việc của Tôi”.
Sau đó sắp xếp cho em vào lớp Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp. Tôi quan niệm Kỹ
Thuật Toán học được là phải khá Toán, ham thích môn Toán. Con đường của
Kỹ Thuật Toán là Bách Khoa, là Sư Phạm Kỹ Thuật, nếu không đạt được yêu
cầu th́ nên đưa các em vào Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp các em đễ thành công
hơn. Với Tôi tất cả các em đều như nhau. Hướng đẫn các em với tất cả sự
hiểu biết, với tất cả tấm ḷng, bất chấp thế lực nào. Nếu v́ một vấn đề
nào đó mà đưa các em vào nơi không thích hợp, th́ đó là thương mà hại.
Tuy đứng lớp dạy Toán, nhưng sinh hoạt Hiệu đoàn
của các em tôi đều tham dự. Từ văn nghệ ca hát, thể thao cho đến làm Báo
Xuân. Hôm chạy bán Báo Xuân cũng có nhiều kỷ niệm vui vui…
Năm 1974, Viện điều tôi qua khu Nội Trú, Tôi chỉ
c̣n vài giờ Triết học, lớp 12 K T T ( Môn luận lư ). Nội Trú tôi nhận
một cơ ngơi tan tành với nhiều lời ”cảnh báo gian nan !“. Các em bất măn
v́ : ”Người ta nuôi các em như nuôi Gà Công Nghiệp“. Tôi t́m hiểu sinh
hoạt ”Nội Trú”, và bắt đầu xây dựng lại. Trước tiên sửa chữa pḥng ốc,
của sổ, bàn ghế tủ gường. Hệ thống thoát nước pḥng vệ sinh đều bị nghẹt,
phải đục ra xây lại. Vấn đề nước sinh hoạt cho các em, tôi cho xây hồ
chứa nước trong mỗi pḥng, để buổi sang các em không c̣n tranh nhau.
Trang bị xô, gáo nhựa. Hệ thống nước cũng được sửa lại, mở nước hợp lư
từ pḥng trên cùng xuống các pḥng đưới, để pḥng nào cũng có nước. Việc
tiếp nhận các em vào Nội Trú cũng được tổ chức chu đáo. Mỗi pḥng đều có
sơ đồ cho các em, bàn ghế, gường tủ đều có dán
tên mỗi em, để các em trách nhiệm.
Vào năm học, tôi sinh hoạt, chuyện tṛ với các em
mỗi tuần một tối, khoảng 2 tiếng, khêu gợi t́nh thương yêu, tính kỷ luật
để xây đựng một Gia Đ́nh Q ấm áp t́nh người. Chỉ một thời gian ngắn, tôi
rất hạnh phúc ( không phải thứ ”hạnh phúc” đề trên đầu mỗi lá đơn ! )
được các em ngoan, các em vâng lời, chăm chỉ học hành, các em đă xem tôi
là Bố, là Ba. Mỗi chiều sau bữa cơm, tôi vào đứng dưới sân chờ đi dạy
lớp Đêm, các em vây quanh quấn quưt bên ”Ba”. Các em có biết tôi vui
sướng ngần nào không ??. Trong Gia Đ́nh Nội Trú, các phân khu trưởng T U
Huấn, Bác Uyển, Cô Huệ cùng các Giáo Sư, Giám Thị, nhân viên đều hết
ḷng thương yêu các em, làm việc chăm sóc các em tận t́nh. Tôi nhờ Cô
Nguyệt, Dược sỹ chăm sóc hướng đẫn cho các nữ sinh, Cô Quế trực đêm lo
về Y Tế ban đêm. Ngân sách nhà nước cung cấp cho ḿnh rất hạn hẹp, bác
Uyển luôn t́m cách cải thiện bữa ăn cho các em. Tuổi đang lớn mà ăn uống
quá kham khổ, Bác Uyển bàn với tôi lấy tiền ”đư thực”_ Nguyên tắc phải
nộp lại ngân sách._ Cho các em 2 tuần một bữa Chè !!. Để giải trí, tôi
quan hệ với Nhạc Sỹ Nguyễn Hữu Sáng Trưởng Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương
để các em được xem Đại Nhạc Hội, tại pḥng ăn vào mỗi chiều thứ bảy.
Ḿnh cũng có sinh hoạt Hiệu Đoàn_ Trần Xuân Cầu làm Hiệu Đoàn trưởng.
Thầy Tṛ ḿnh cũng lên sân khấu ca hát. Tôi c̣n nhớ viết Bích Báo, các
em đă tả ”Tô canh Nội trú ”:”Tô canh lạnh lẽo nước trong veo......Một
con cá tẻo teo !”.
Cuộc sống êm đềm với bao ước mơ, một chương tŕnh
cho năm tới, sẽ cải thiện nhiều hơn, sẽ có nhiều hoạt động xă hội hơn…Nhưng
!! Biến cố… Đêm 29, Một trái pháo rơi vào pḥng nữ sinh. May mắn là Giám
thị đă cho các em đi tản ra phố cả…
Rồi Thầy Tṛ ḿnh tan ră từ đó… Thời gian quá ngắn
ngủi... Nhưng thời gian này, công việc tôi đă làm này có ư nghĩa nhất
trong đời tôi. Tôi cám ơn các Em, những đứa trẻ mồ côi, những đứa trẻ
thiếu t́nh thương. Chính các em đă cho tôi cơ hội thể hiện t́nh thương
yêu, cho tôi một cuộc sống biết nâng niu, biết quư trọng t́nh người, Mà
măi về sau này, tôi chỉ sống như một động vật, chỉ quần quật t́m cái ăn
cho tồn tại thân xác này thôi.( duy vật cơ !). Tôi cũng đi đạy nhiều nơi
sau đó, nhưng có lẽ không nơi nào có nhiều kỷ niệm và T́nh cảm bằng
ngôi Trường Q.
Các em thân yêu của tôi, Tôi viết ra những điều này
hẳn các em đă biết cả rồi.... Thôi tạm đủ, Chào các em… Chúc các em sức
khỏe.
Vợ Người Chiến Binh
•Thân tặng các em
học sinh QGNT, có những người cha
hào hùng và
những người mẹ can đảm, giàu tình yêu thương.
Hoài Thu Phương
Áo cưới em may,
Còn thơm mùi vải
mới,
Rượu hồng em nhắp
Còn thắm ở bờ môi.
Một phút chia phôi,
Nghìn đời vĩnh
biệt !
Anh bỏ lại, mẹ con
em đơn côi.
Ra đi không thương,
không tiếc !
Sao em không biết ?
Lấy chồng chiến
binh
Để trở thành goá
phụ !
Anh ơi, mỗi độ thu
phong,
Dấu con lệ chảy
ròng ròng !
Mùa thu, rụng lá
ngô đồng
Đau đớn thay ,
em sống cảnh cô phòng !
Mẹ con em vẫn đợi,
vẫn mong.
Hậu mình số phận
long đong !
T hương
anh chết cả cõi lòng
Tuổi trẻ em khóc chuyện "mất" chồng
!
Anh đi trả nợ non sông,
Chờ ngày đoàn tụ thành công,
Ai ngờ số kiếp bềnh bồng
!
Em đành ôm con đứng đợi mong
!
Chăn đơn, gối lẻ lòng em lạnh.
Bây giờ em cô đơn bất hạnh
!
Nhìn thời gian trôi qua nhanh.
Anh chết rồi, đời em vắng lạnh
!
Em buồn khóc nơi phố vắng
!
Thương nhớ hình bóng anh năm nào
!
Anh về tận cõi lao xao
!
Còn anh đâu nữa mà mong với chờ
Đời em lạc lõng bơ vơ
!
Cuộc sống vô duyên, quá hững hờ,
Tâm hồn em quá xác xơ
!
Em sầu lẻ bóng, gió nào lạnh hơn
?
Hoài Thu Phương
Giáo Sư Phan Thanh Tâm
NHỮNG KỶ NIỆM TẠI TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ
Vào khoảng đầu tháng Mười năm 1967 tôi nhận được Sự vụ lệnh của Bộ Quốc-Gia
Giáo-Dục thuyên chuyển từ trường Trung-học Thủ-Đức về dạy tại trường Trung-học
Quốc-Gia Nghĩa-Tử Sài-G̣n. Trường này trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh, dưới sự
điều-khiển của Bác-sĩ Đại-tá Viện-trưởng Trương Khuê Quan và Trung-tá Viện-phó
Bùi Trọng Chi. Do sự viện trợ của Hoa-Kỳ nên trường rất lớn và được xây cất trên
một khu đất rộng lớn, ở gần Ngă Tư Bẩy Hiền. Trường cao ba từng, các lớp học đều
rộng răi và có tấm bảng xanh gắn liền vào tường như các lớp học tại Mỹ. Trường
có các lớp từ đệ thất đến đệ nhất. Trường có khoảng 100 nhân viên gồm Hiệu
trưởng, Giám-học, Giáo-sư, Giám-thị và thư-kư văn-pḥng Hiệu-trưởng. Nhà trường
có một pḥng họp rất lớn để cho các Giáo-sư ngồi giải lao lúc trước giờ dạy học
và lúc ra chơi. Cái đặc biệt ở trường này là các nam và nữ Giáo-sư ít khi nói
chuyện với nhau và thường ngồi thành hai khu riêng biệt. Nam Giáo-sư th́ ngồi ở
phía trong, gần tường c̣n nữ Giáo-sư th́ ngồi ở phía đối diện, ngay gần cửa ra
vào.
Tại trường Quốc-Gia Nghĩa-Tử tôi đă gặp lại nhiều bạn bè cũ như Đỗ thị Lĩnh,
Nguyễn thị Bắc và Trần Kim Loan, học cùng với tôi từ lớp nhất trường Lệ-Hải,
Hải-Pḥng, Bắc Việt Nam, Nguyễn Kim Xuyến, Nguyễn thị Dung từ trường Trung-học
Trưng-Vương rồi Đỗ thị Huệ và Trần Kim Oanh, bạn học từ trường Đại học Văn-khoa
Sài-G̣n. Nữ Giáo-sư cũng chia thành hai nhóm: Các cô độc thân ngồi nói chuyện
với nhau như Thu-Hoài, Thọ-Đa, Đỗ Dương Chi, Mai ... C̣n các bà thường ngồi nói
chuyện với nhau về con cái, chợ búa, các món ăn ... Nhóm chúng tôi gồm có tôi,
Lĩnh, Xuyến, Dung, Thu, Diệp, Tần, Ẩn, Hương ... Tần có tài nói chuyện pha tṛ
nên rất vui.
Các học sinh của trường Quốc Gia Nghĩa Tử phần nhiều là con của các Hạ Sĩ quan
tử-sĩ hoặc phế-binh nên đời sống cũng eo-hẹp. Lớp tôi dạy có một nữ-sinh tên
Liên ngày nào tôi cũng thấy em mặc áo dài trắng đă cũ mà hai khuỷu tay đều bị vá
thấy thương quá nên tôi bảo em đưa áo mẫu, tôi mua vải phin nơn may áo mới cho
em. Sau khi nhận được áo mới, mấy hôm sau em trao cho tôi một tấm thiếp do ba
của em viết cám ơn tôi và ngỏ ư muốn tôi nhận em làm con nuôi. Tôi đă viết thư
cám ơn hảo ư của ông nhưng tôi từ chối viện lư do là tôi không đủ khả năng để
nuôi em, c̣n chỉ nhận suông thôi th́ tôi không muốn. Ở một lớp Đệ-thất, có một
nam sinh tên là Thành, chả bao giờ thuộc bài nên nh́n vào sổ điểm thấy các
Giáo-sư Toán, Lư-Hóa, Sử-Địa ... đều cho điểm không và có vị c̣n viết kèm lời
phê là "Không thuộc bài." Tôi thắc mắc nên muốn t́m hiểu. Một hôm nhân buổi ra
chơi, tôi ở lại lớp rồi gọi Thành lên và hỏi là tại sao em lại không chịu học.
Tôi được em cho biết là v́ nhà nghèo nên buổi tối em thường phải đi thổi kèn đám
ma để lấy tiền phụ giúp cho gia-đ́nh. Em vui vẻ kể cho tôi nghe những buổi em đi
theo phường kèn ra sao. Về sau trong giờ dạy của tôi có lần Thành đă đưa tay lên
để xin đọc bài. Tuy không thuộc lắm nhưng chứng tỏ cho thấy em đă cố gắng làm
cho tôi ngạc-nhiên và cảm-động.
GIÁO-SƯ NGUYỄN THỊ XUÂN-NGA
Trích trong HỒI KƯ "CUỘC ĐỜI DẬY HỌC"
Qua Cổng Trường Xưa
Thương mến gửi về Quư Đồng Nghiệp cũ và các em Học Sinh Quốc Gia Nghĩa Tử ngày
xưa.
Kính tặng hương hồn Trung Tá Trương Khuê Quan, Thiếu Tá Bùi Trọng Chi và Hiệu
Đoàn Trửơng Lâm Hữu Bàng.
Trở về Việt Nam bao nhiêu lần mà tôi vẫn c̣n đắn đo có nên thăm trường cũ không?
Mà có ai c̣n nơi đó để mà thăm?
Tôi xa trường Quốc Gia Nghĩa Tử từ tháng bảy năm 1967, vài ngày sau khi Hiệu
Trưởng Thân Trọng Huề đến nhậm chức. Đến chào Tân Hiệu Trưởng để thanh minh:
“Thưa Hiệu Trưởng tôi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển trước khi Hiệu Trưởng
đến đây. Vậy là tôi đi không phải v́ Hiệu Trưởng đến.” Và hôm ấy không biết Hiệu
Trưởng Thân Trọng Huề buồn lo chuyện ǵ mà chỉ nói một câu giă từ ngắn ngũi, “Je
m’en fiche.” Thế là từ dạo ấy tôi không có dịp trở lại ngôi trường xưa, nơi mà
ấp ủ bao kỷ niệm với các bạn đồng nghiệp và những học sinh thương mến.
Thuở trường Quốc Gia Nghĩa Tử khai giảng niên học đầu tiên năm 1963-64, chúng
tôi gồm 4 nữ giáo sư và vài nam giáo sư dân sự: gs Vạn Vật Nguyễn Văn Thơm, gs
Pháp Văn Lê Quan Tấn, gs Vật Lư Vũ Ngọc Vĩnh, gs Sử Địa Nguyễn Đôn Phong, gs
Toán Nguyễn Phúc Khánh. Quả thật chúng tôi là dân thiểu số giữa những thầy Kaki
đẹp trai lúc nào cũng chỉnh tề trong bộ quân phục thẳng nếp. Hai chị giáo sư
Việt Văn Hồ Thị Ngọc Nữ, Vơ Thị Ngọc Dung và về sau có thêm chị giáo sư vật lư
Nguyễn Thị Kim Loan bận lo bổn phận làm mẹ hàng năm nên chỉ c̣n Nguyễn Lan
Phương và tôi thừơng bị “chịu trận” ở trường Thiếu Sinh Quân mỗi khi hè về với
một đám học tṛ loi nhoi đủ lứa tuổi từ đệ thất đến lớp mười hai. Năm sau có
thêm kiều nữ giáo sư vạn vật Ngô Thị Băng Sơn tiếp tay và những năm kế tiếp có
thêm gs Việt văn dẹp mê hồn Ngô Thị Thu Hà và gs Việt văn Nguyễn Thị Hoà lúc nào
cũng làm vui nhà vui cửa mỗi khi Chị hiện diện.
May mắn là vị giám học Lâm Hữu Bàng rất-là-nhà-binh luôn làm trại trửơng có biện
pháp kỷ luật cứng rắn nên trại sinh lúc nào cũng theo nề nếp và tôn trọng giờ
giấc trong các trại hè. Ngoài ra quư nam giáo sư như Trần Văn Đắt, Hoàng Đ́nh
Lộc, Nguyễn Văn Xiêmm Hoàng Xuân Thiệu (thuở ấy chưa làm hiệu trưởng) Hồng Quang
Anh, Huỳng Văn Quảng, Lê Văn Khiết, Bùi Quốc Tường, Nguyễn Khánh Do, Nguyễn Tri
Văn, Trần Quốc Giám, Vũ Viết Dy, Phan Văn Cừ, Phan Văn B́nh, Trần Đ́nh Thanh, Lê
Thái Ất, Diệp Vĩnh Tấn (c̣n ai nữa nhĩ? xin đánh chữ đại xá cho nếu lở quên nêu
tên) rất là dễ thương sẵn sàng làm thay các nữ giáo sư “ốm yếu” những ǵ trong
khả năng. Nhưng có một lần quư vị nam giáo sư không biết làm sao ra tay giúp mà
chỉ đứng thập tḥ ở cửa ra vào pḥng ngủ nh́n các nữ sinh oằn oại rên la kêu
khóc. Chẳng là chiều hôm đó nhiều nữ sinh bị ngộ độc thực phẩm sau bữa cơm chiều
nên vừa nôn vừa khóc ầm ỉ. Có em phải lê lết xuống cầu thang để lên xe tới bệnh
viện. Các nữ giáo sư quả thật là tay mềm chân yếu không sao bê các em nỗi. Rất
may là hôm sau các em vui vẽ trở về đoàn tụ với gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử tiếp
tục những ngày vui ở Vũng Tàu sau một phen hú vía.
Sống vui với đại gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử đến tháng bảy năm 1967, tôi “đào ngũ.”
Tôi ra đi – không phải theo tiếng gọi của con tim của ông bồ quân dược mà học
sinh ngỡ là Phi Luật Tân do nứơc da đen ḍn và mái tóc dợn– mà v́ nhu cầu nghề
nghiệp. Ngày tôi ra đi có lẽ giúp ông Tổng Giám Thị Mười và Hiệu Trưởng Bùi
Trọng Chi thở phào nhẹ nhơm, không c̣n phải lo “Chị sao mà chiều chúng nó thế!”
Trong nghề dạy học tôi áp dụng Triết lư t́nh thương chứ không phải kỷ luật để
giáo dục học sinh. Không biết Hiệu trưởng Bùi Trọng Chi báo cáo về tôi với Viện
trưởng ra sao nhưng mỗi lần họp là tôi có đề tài để xin thảo luận và cứu xét
cách nào cho hợp với việc giáo dục thành phần học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử. Thế
cho nên lần đầu tôi tŕnh diện với Viện Trửơng Trung Tá Trương Khuê Quang, ông
nh́n tôi rất kỹ rồi hỏi lại “À, ra Chị là Vơ Kim Sơn phải không?” Trung Tá
Trương Khuê Quang hẳn là ngạc nhiên v́ trông vẻ bề ngoài của tôi không đến nỗi
“tân tiến” lắm dù tôi ở Mỹ mới về c̣n thơm mùi “hot dog” và “hamburger.”
Đa số các em học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử thiếu vắng t́nh thương. Cha Anh đă ngă
gục ngoài trận tuyến. Mẹ th́ phải tảo tần lo cho cuộc sống gia đ́nh hàng ngày,
nên giao các em cho bà ngoại, bà nội trong nom. Có em phải đeo ṭn ten phía sau
chiếc xe đ̣ cà rịch cà tang lê lết từ Hóc Môn thả các em xuống ngă tư Bảy Hiền
để đến trường, tay cắp sách, tay ôm b́nh cà rem. Có em học sáng xong là ôm b́nh
cà rem bán suốt buổi chiều hay ngược lại là phải bán hết cà rem để kịp vào lớp
lúc một giờ. Khi gọi các em đọc bài không thuộc tôi không nở hạ bút khoanh tṛn
trứng vịt v́ các em phải bị “consigne” ngày Chúa Nhựt,” rồi ai sẽ gánh nước cắt
rau, tưới cải, nhổ cỏ bón phân vườn rau thay cho các em đây?
Tôi không phạt. Tôi không rày. Ngô Chí thiền làm chứng cho tôi nhé. Đây là cậu
học tṛ phá tôi nhất. Vừa điểm danh xong, quay lưng lại để viết bảng là nghe
tiếng, “Thưa cô Ngô Chí Thiềng nhảy cửa sổ.” Thế mà các em học ban A ra thi Tú
Tài đều được điểm cao với môn Vạn Vật. Đặc biệt là Vương Thị Ngọc Dung, Nguyễn
Thị Thu Thủy, Lê Hồng Đa, Trần Cao Cử, Lê Thị Mát, Nguyễn Thị Nguyệt và cũng là
hiền thê của thầy Trần Văn Đắt. Xin hỏi nhỏ thầy Đắt một câu nhé. Làm sao mà
Thầy được vướng vào “Ṿng tay học tṛ” vậy? C̣n ai được điềm Vạn Vật 19/20 thuở
ấy, nhớ lên tiếng nhé.
Rồi đến khi sang Mỹ học lại vào năm 1972, tôi đựơc gặp một số học tṛ cũ ở QGNT
ngày xưa đựơc tuyển chọn theo chuương tŕnh leadership programs. Mừng ơi là mừng
đựơc gặp nhau trên đất Mỹ, ở cái thuở mà trên toàn đất Mỹ chỉ có vơn vẹn 800
ngừoi Việt Nam kể cả nhân viên Ṭa Đại Sứ Việt Nam.
Rồi năm nghiệt ngă 1975 đến. Chúng tôi chia tay nhau. Người quay về cố quốc, kẻ
sang Mexico hay Canada t́m kế lưu ngụ hải ngoại v́ chiến tranh ở quê nhà đến hồi
kết thúc không thuận lợi cho miền Nam Việt Nam. Chúng tôi mất tin tức nhau suốt
thập niên 70’s và 80’s ngoại trừ Xuân Mai đến rũ rê cùng nhau vựơt biên mấy năm
liền mà không thành.
Rồi dến đầu thập niên 90, có đại hội QGNT lần đầu ở Orange County. Chỉ có thầy
Phạm Nghệ là không thay đổi v́ thầy vốn gầy g̣ muôn thuở. Gặp lại, chúng tôi bỡ
ngỡ âm thầm hỏi nhau, “có phải ngừơi xưa không nhĩ?” Đă mấy thập niên xa nhau!
Hàng mấy chục năm đó đủ cho mái tóc đổi màu,- mà không cần đền bàn tay khéo léo
của cô thợ làm tóc- và đủ để bàn tay khắc nghiệt của thời gian tạc những lằn
phân chia ranh giới mắt, mủi, môi, miệng trên những gương mặt tươi mát của ngày
xưa.
Rồi ít khi gặp lại nhau. Tôi cứ tưởng chừng những kỷ niệm xưa đă đựơc chôn vùi
dứơi lớp thời gian mấy mươi năm dày đặc. Măi cho đến năm 2000, trên đừơng từ Nam
Vang về đến Saig̣n bằng ô tô, khi ngang qua cỗng trừơng Quốc gia Nghĩa Tử, có
ngừơi hỏi, “Đây có phải là trừơng QGNT không?” Tôi run giọng trả lời, “ Vâng.
Bên ng̣ai trông bệ rạc với những hàng quán la liệt, nhưng bên trong đó tôi có
nhiều kỷ niệm dấu yêu không tiền của nào mua lại đươc.”
Vơ Kim Sơn
Nhân dịp hội ngộ Gia Đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử tại San Jose 8-8-2003
Lời Cám Ơn Muộn Màng
Thành thật cám ơn Ban Giám Đốc, Quư
Đồng Nghiệp và các em Học Sinh trừơng Quốc Gia Nghĩa Tử Sàig̣n năm xưa.
Chính ngôi trừơng nầy đă giúp tôi, một cô gíao trẻ từ ngọai quốc trở về
bắt đầu ư thức và học hỏi thích ứng vào quê hương đang bị ảnh hửơng
chiến tranh dày ṿ.
Ban Gíam đốc mở rộng ṿng tay đón nhận tôi về
trừơng vừa lúc khai giảng năm đầu tiên. Đặc biệt nhớ ơn Hiệu trửơng Bữu
Trí và Đại Uư Bùi Trọng Chi cùng Giám học Lâm Hữu Bàng quá tin tửơng nên
cho phép tôi tự do áp dụng cách giảng dạy mới trong lớp học.
Chính ở ngôi trừơng nầy tôi đựơc quư đồng nghiệp
thật cởi mở, đă chân thành dành cho tôi t́nh bạn thân thiết nên mỗi buổi
đến trừơng là một niềm vui. Đặc biệt là quư Thầy Trần Văn Đắt, Hoàng
Xuân Thiệu, Vũ Ngọc Vĩnh, Nguyễn Văn Thơm, Hồ Thị Ngọc Nữ, Vơ Thị Ngọc
Dung, Lê Quang Tấn cùng chung thời khóa biểu nên gặp nhau mỗi tuần đủ ba
buổi. Vậy mà cũng không baogiờ nói hết chuyện muốn kể cho nhau nghe.
Và các em học sinh Quốc Gia Nghĩa tử, các em có
biết chăng là tôi mang nợ các em nhiều lắm không? Với một số ít các em
đựơc nhận vào trừơng QGNT dù cha, anh các em vẫn c̣n phục vụ đâu đó.
May mắn cho các em nầy. Nhưng với số đông học sinh c̣n cha phục vụ trong
quân đội, không đựơc hửơng đặc quyền đó th́ sao? Tôi nghĩ là con em của
quân nhân đều xứng đáng hửơng quy chế nhập học trừơng QGNT chứ, v́ cha
anh các em phải chấp nhận đồng lương khiêm nhừơng, lại có khi phải sống
xa gia đ́nh để phục vụ tổ quốc. Ừ nhĩ, thuở ấy sao không có ai tranh đấu
quyền lợi cho con em quân nhân c̣n sống đựơc vào trừơng QGNT?
Mỗi khi nh́n thấy những trẻ con c̣n đủ cha mẹ, tôi
h́nh dung cảnh đứa trẻ đựơc hạnh phúc tung tăng đi giữa cha mẹ đôi bên
che chở, đùm bọc và hứơng dẫn con trên đừơng đời. C̣n khi mất Cha rồi
th́ đứa bé tiến lên một ḿnh và chỉ có mẹ hoặc bà lẽo đẽo theo sau. Các
em phải tự ḿnh đương đầu với mọi sóng gío để đi vào tương lai. Nghĩ
đến đó tôi khâm phục các em lắm và nhất là những học sinh “đàn anh, đàn
chị” c̣n phải tiếp sức với mẹ với bà nội, ngoại lo cho bản thân cùng đàn
em dại. Có những lần ham vui thức khuya, tửơng rằng khi vào lớp sẽ mệt
mơi lắm và tôi sẽ nói qua quưt cho hết giờ. Nhưng bứơc vào lớp, nh́n
những gương mặt hiếu học của các em, biết những cố gắng phi thừơng của
các em mới đựơc đến trừơng, tự nhiên tôi hăng say giảng dạy v́ nhớ rằng
các nam sinh không thi đậu tú tài th́ tương lai ở chiến trừơng đang chờ
các em đó. Chính các em là nguồn căm hứng cho tôi thích nghề dạy học.
Chính các em cho tôi danh dự đựơc giảng dạy các em. Chính các em cho
tôi niềm kiêu hănh mỗi khi tự giới thiệu: “ Tôi từng đi dạy ở trừơng
Quốc Gia Nghĩa Tử Sàig̣n kể từ lúc mới khai giảng năm 1963 cho tới năm
1967. Tôi là Cô gíao dạy Vạn Vật cho nhiều học sinh thi Tú Tài I và
II. Và bây giờ có khá nhiều học sinh QGNT đă thành đạt trên đừơng công
danh và sự nghiệp. Điều đáng tự hào là tôi đựơc dạy học sinh QGNT. Đa
số các em đă gựơng đứng dậy sau khi cha anh gục ngă. Các em chập chững
bứơc và học đi một ḿnh, không ngại chông gai, và tiến tới. Thật đáng
khâm phục.
Cùng với niềm tự hào của tất cả học sinh QGNT, tôi
rất hănh diện là thành viên của trừơng Quốc Gia Nghĩa Tử năm xưa và bây
giờ.
Cô gíao Vạn Vật Vơ Kim Sơn
Xin Xem Tiếp Phần 2 : Các Sinh Hoạt QGNT 63-75
|