Trang Nhà quocgianghiatu.com

 

Đại Hội QGNT LẦN THỨ 8 - LỄ KỶ NIỆM 50 NĂM 1963 - 2013

 

Kỷ Yếu 50 Năm QGNT: Mục Lục

 

 

Mục Lục: Phần 1 1963-1975

 

In Memoriam

Sơ Lược Tiểu Sử Ban Vận Động

Thành Lập QGNT Cuộc

Ban Giám Hiệu QGNT Saigon

Lịch Trình Thành Lập QGNT

Trường Trung Học Kỹ Thuật

Trường Trung Học Tổng Hợp

Góc Thầy Cô

Trường QGNT Huế

Trường QGNT Đà Nẵng

Trường QGNT Biên Hoà

Trường QGNT Cần Thơ

Các Ban Đại Diện Học Sinh

Danh Sách Cựu Giáo Sư và Giám Thị

 

 

Ban Giám Đốc Trường Quốc Gia Nghĩa Tử  Saigon 1963 - 1975   
 

PHỔ THÔNG

Niên khóa

Hiệu Trưởng

Giám Học

Tổng Giám Thị

Hiệu Đoàn Trưởng

1963-1964

Đỗ Trọng Huề

Trần văn Bá

Trần Văn Mười

Chưa có

1964-1965

Bửu Trí

Lâm Hữu Bàng

Trần Văn Mười

Trần Ngọc Hồ

1965-1966

Phùng Ngọc Cảnh

Lâm Hữu Bàng

Nguyễn văn Ḱnh

Lê Đức Khanh

1966-1967

Trương Khuê Quan

Lâm Hữu Bàng

Nguyễn văn Ḱnh

Lê Quan Tấn

1967-1968

Đặng Trần Dư

Phạm Đăng Châu

Nguyễn văn Ḱnh

Lê Quan Tấn

1968-1969

Đặng Trần Dư

Phạm Đăng Châu

Nguyễn văn Ḱnh

Trần Quốc Giám

1969-1970

Hoàng Xuân Thiệu

Trần Ngọc Hồ

Nguyễn Sơn

Huỳnh Văn Ân

1970-1971

Hoàng Xuân Thiệu

Trần Ngọc Hồ

Nguyễn Sơn

Huỳnh Văn Ân

1971-1972

Hoàng Xuân Thiệu

Trần Ngọc Hồ

Nguyễn Sơn

Huỳnh Văn Ân

1972-1973

Phạm Thanh Liêm

Huỳnh Văn Ân

Nguyễn Sơn

Phan Văn B́nh

1973-1974

Phạm Thanh Liêm

Huỳnh Văn Ân

Nguyễn Sơn

Phan Văn B́nh

1974-1975

Phạm Thanh Liêm

Hồ Công Trí

Nguyễn Sơn

Phan Văn B́nh

 

TỔNG HỢP

Niên khóa

Hiệu Trưởng

Giám Học

Tổng Giám Thị

Hiệu Đoàn Trưởng

1972-1973

Trần Ngọc Hồ

Hoàng Thị Lộc

 Nguyễn Đức Quảng

1973-1974

Trần Ngọc Hồ

Hoàng Thị Lộc

 Nguyễn Đức Quảng

1974-1975

Trần Ngọc Hồ

Hoàng Thị Lộc

 Nguyễn Đức Quảng

 

KỸ THUẬT

Niên khóa

Hiệu Trưởng

Giám Học

Tổng Giám Thị

Hiệu Đoàn Trưởng

Tổng Giám Xưởng

1966-1967

Nguyễn Hữu Thông

Nguyễn Hàn Tý

Lê Văn Út

Huỳnh Thanh Hải

Bùi Văn Đắc

1967-1968

Nguyễn Hữu Thông

Huỳnh Hữu Tâm

Huỳnh văn Lâu

Huỳnh Thanh Hải

Bùi Văn Đắc

1968-1969

Nguyễn Hữu Thông

Huỳnh Hữu Tâm

Huỳnh văn Lâu

Huỳnh Thanh Hải

Bùi Văn Đắc

1969-1970

Phan văn Cự

Huỳnh Hữu Tâm

Huỳnh văn Lâu

Huỳnh Thanh Hải

Trần Khắc Lượng

1970-1971

Đặng Trần Dư

Huỳnh Hữu Tâm

Huỳnh văn Lâu

Huỳnh Thanh Hải

Trần Khắc Lượng

1971-1972

Đặng Trần Dư

Huỳnh Hữu Tâm

Bùi văn Đắc

Huỳnh Sơn Cương

Trần Khắc Lượng

1972-1973

Đặng Trần Dư

Đỗ Đại Thanh Vân

Bùi văn Đắc

Huỳnh Sơn Cương

Trần Khắc Lượng

1973-1974

Đặng Trần Dư

Đỗ Đại Thanh Vân

Bùi văn Đắc

Huỳnh Sơn Cương

Trần Khắc Lượng

1974-1975

Đặng Trần Dư

Trần Khắc Lượng

Bùi văn Đắc

Huỳnh Sơn Cương

Đỗ Đại Thanh Vân

 

............ diễn tả 50 năm, những mảnh đời QGNT bằng trang sách đă lật sang, một trang sách có cánh hồng héo úa, ấp ủ giữa rêu phong, nhăm nhúm - là những kỷ niệm, những niềm thương mến bị khỏa lấp trong những nhọc nhằn, bôn ba.
    Sau trang sách ấy là một mảnh trời yêu dấu, có những cánh chim, một ánh mây của một thời mơ mộng...... Khoảng thời gian 1963 - 2013 đầy biến động và đổi thay được viết bằng những mầu chuyển đỏ, vàng.

 

 

 

 

 

 

 

Thành Lập Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc
Hắc Bảo Đăng

 



Luật số 3/62 qui định sự liên đới quốc gia tương trợ các cựu chiến sĩ và cô nhi quả phụ tử sĩ:

ĐIỀU THỨ 17: -- Quốc Gia thừa nhận là nghĩa tử các trẻ vị thành niên, dưới 18 tuổi, mà cha hoặc mẹ là chiến sĩ đă bỏ ḿnh v́ chính nghĩa quốc gia, hoặc đă chết v́ chiến thương.

ĐIỀU THỨ 19: -- Các quốc gia nghĩa tử, sẽ được nuôi nấng dậy dỗ, trông nom săn sóc hay trợ giúp cho đến khi đủ 18 tuổi.

Để cụ thể hóa sự liên đớiu quốc gia tương trợ các chiến sĩ, cựu chiến sĩ và quả phụ tử sĩ, cùng các con của họ để giúp chúng có điều kiện trở thành những cán bộ ưu tú của Quốc giạ một trường Trung học nội trú đầu tiên của Quốc gia nghĩa tử cuộc đă được xây dựng xong trên khu đất rộng 5 mẫu, tại đường Vơ-Tánh, Tân-Sơn-Ḥa - Gia Định.

Đúng theo tinh thần đạo luật 3/62, Mục thứ năm, nói về Tổ chức Quốc gia Nghĩa tử cuộc, cơ quan này đă được thành lập thuộc Bộ Quốc pḥng, có Bộ Quốc gia Giáo dục trợ giúp về vấn đề giáo dục.

Ủy ban vận động xây cất trường sở gồm có quư ông: Trưởng ban: Trương-văn-Chôm, Khoa trưởng Dược khoa Đại học đường; Phó Trưởng ban: Nguyễn-văn-Hoanh, Chủ-tịch Hội-đồng Đô thành; Trần-ngọc-Tŕnh, Hội trưởng hội Bảo trợ gia đ́nh tiết nghĩa; Thư kư: Đinh-văn-Khai, Chủ nhiệm nhật báo Tiếng Chuông; Thủ quỹ: La-thành-Nghệ, Dược sư; Kiểm soát: Vơ-văn-Ứng, đại diện nhà thuốc Vơ-văn-Vân; Nguyễn-văn-Phước, Giám đốc hăng Phước Mỹ; Cố vấn: Thiếu tu8ớng Trần -tử -Oai, Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lư; Trương-khuê-Quan, Y sĩ Trung-tá, Giám đốc Nha Xă hội Quân đội Việt-Nam Cộng-Ḥa; Nguyễn-đ́nh-Hưng, Đổng-lư văn pḥng Bộ Quốc gia Giáo dục; Bác sĩ Bùi-kiến-Tín; Kiến-trúc-sư Trương-đức-Nguyên.

Với tiền đóng góp của một số nhà từ thiện và Ngân sách của Bộ Quốc pḥng, công cuộc để xây dựng trường Trung học đầu tiên của Q.G.N.T.C đă hoàn thành đợt đầu theo đồ án của K.T.S Trương-đức-Nguyên, phí tổn gần 9 triệu đồng.


Hai ngôi nhà 2 từng lầu song hành với 30 lớp học đă xây cất xong, cùng với khu văn pḥng.

Trên 3.000 học sinh đă có thể có chỗ học vào niên học tới.
Khu dành cho học sinh (1.200) nội trú thuộc chương tŕnh công tác đợt ỊI Khu này gồm một ngôi nhà 2 từng lầudài 125 m dài gồm 12 pḥng ngủ, phí tổn lối 8 triệu rưỡi đồng.


Theo với nhà ngủ ấy, sẽ có quán cơm, nhà bếp và phụ thuộc, bệnh xá và nhân viên, nhà gác cùng khu thể thao, sân chơi.

Theo dự thảo Nội quy của nhà trường th́ ngoài mục đích xă hội đă nêu trên, ngoài phần giáo dục căn bản, nhà trường sẽ áp dụng phương pháp trắc nghiệm tâm lư để t́m hiểu khả năng của các con chiến sĩ, giúp chúng phát huy đầy đủ những khả năng ấy, nhằm mục đích giúp chúng chọn lấy một nghề thích ứng với tài năng riêng: binh nghiệp, nghề chuyên môn: Bác sĩ, Kỹ sư, Giáo sư v.v... sau khi đă theo học hết ban Trung học và đậu cấp bằng Tú tài.

Cũng theo dự thảo ấy, các học viên Nghĩa tử Quốc gia sẽ được miễn học phí và không phải trả một phí khoản nào về sự ăn ở tại trường. Nếu đủ 18 tuổi mà Nghĩa tử Quốc gia c̣n đương học hành giở dang, th́ theo đề nghị của trường, các học viên có thể xin gia hạn cấp dưỡng để theo học đến thành tài.


Như vậy, Q.G.N.T.C thật là một công cuộc bác ái vô cùng hữu ích cho xứ sở.
H. B. Đ.

 

 

Sơ Lược Tiểu Sử

Ủy Ban Vận Động Xây Cất Trường QGNT

 

Trích thư của Ông Đinh Văn Khai gởi Bác Sỹ Trương Khuê Quan

 

Montreal ngày 4 tháng 5 năm 1992

Anh Trương Khuê Quan thương mến,

Tiếp theo cuộc điện đàm hôm qua, theo thơ này, tôi gởi kèm theo phóng ảnh thơ ngày 27 tháng 4 năm 1992 mà tôi đã gởi cho anh nơi địa chỉ ở Hollande. Ủy Ban Vận Động xây cất Quốc Gia Nghĩa Tử lúc ấy, năm 1962, gồm những anh dưới đây:

 

1.       Anh Trương Văn Chôm, Khoa trưởng Dược khoa: Trưởng ban, anh Chôm sang Pháp nên tôi mời ông Nguyễn văn Hoanh, Chủ tịch Hội Đồng Đô Thành thay thế Trưởng Ban.

2.       Phó Trưởng Ban kiêm Tổng Thư Ký : Đinh Văn Khai, Chủ nhiệm Nhật báo Tiếng Chuông; có hai ký giả phụ giúp là Nguyễn Ang Ca và Phong Đạm. Trụ sở Ủy Ban Vận Động Xây Cất QGNT đặt tại nhà tôi số 107 Pasteur, sau dời lại 92-94 Gia Long, tòa soạn của nhựt báo Tiếng Chuông.

3.       Anh La Thành Nghệ, Dược Sỹ : Thủ Quỹ

4.       Anh Trương Đức Nguyên, Kiến Trúc Sư vẽ đồ án không nhận tiền thù lao.

5.       Anh Trần Ngọc Trình, Thầu Khoán, xây cất hứa không lấy lời.

 

Những hội viên do tôi mời : Bà Bút Trà, chủ nhiệm nhựt báo Sài gòn Mới; chị Nguyễn Thị Hai, dược sỹ; anh Trương văn Tố, dân biểu; anh Võ văn Ứng, thương gia, (Bầu Ứng thể thao).

 

Mỗi vị trong UBXC/QGNT, UBVĐ/XC/QGNT cũng như các hội viên đều đóng góp mỗi người hai trăm ngàn đồng (200,000 đồng) để giúp Cơ Quan Văn Hoá phước thiện này. Riêng anh Nguyễn Cao Thăng, dược sỹ, chủ hãng thuốc tây OVP : Office Pharmacetique Vietnamien có giúp năm chục ngàn đồng 50,000 đồng. Ông Châu ngọc Thôi, Đổng Lý Văn Phòng Bộ Quốc Phòng mà Bộ Trưởng là Ông Nguyễn Đình Thuần, đại diện Bộ Quốc Phòng, cũng có công trong UBVĐXC/QGNT.

 

Hiện giờ những vị trong Ủy Ban Vận Động xây cất Quốc Gia Nghĩa Tử và hội viên còn lại là những anh dưới đây:

Các anh: Trần Ngọc Trình, hiện ở Pháp

Đinh văn Khai, hiện ở Montreal, Quebec, Canada

La Thành Nghệ, hiện ở California, Hoa Kỳ

Trương Đức Nguyên, hiện ở Connecticut, Hoa Kỳ

và chị Nguyễn thị Hai, hiện ở California, Hoa Kỳ

Nhưng những người có công nhiều nhất là Bác sỹ TT và anh.

 

Tiện đây, tôi góp ý cùng anh: Nhân dịp Đại Hội QGNT đầu tháng 6/1992 tới đây, anh vui lòng nhắc đến tất cả các anh chị đã góp công vào việc xây cất Quốc Gia Nghĩa Tử cho các cựu Giáo sư và Nam Nữ Sinh Viên QGNT hải ngoại được biết.

Thành thật chúc Đại Hội Quốc Gia Nghĩa Tử thành công mỹ mãn.

Cuối thư, chúc anh chị luôn được sức khỏe dồi dào.

Đinh văn Khai

 

 

50 năm trước cha vị quốc

38 năm sau con thành gia

Ai từng học trường nghĩa tử

Không quên ơn người lập ra

 Minh Chí


 

Giới Thiệu :

Viện Giáo Dục Quốc Gia Nghĩa Tử (QGNT) được thành lập vào tháng 9 năm 1963 tại Sài G̣n nhằm cung ứng nơi ăn ở và học hành cho con em các tử sĩ , thương phế binh của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa .Ngôi trường này được thiết kế theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ và được coi là một trong những cơ sở giáo dục khang trang, tân tiến nhất bấy giờ .

Đây là một chương tŕnh của chính phủ để tỏ ḷng tri ân của quốc gia đối với những người đă cống hiến xương máu hoăc hy sinh cho tổ quốc . Vào thời gian đó, đa số các gia đ́nh thương binh tử sĩ không biết đến chương tŕnh này, v́ thế, niên học đầu 1963-1964, chỉ có khỏang 500 học sinh ghi danh học tại trường QGNT Saig̣n.

Thời gian đầu, Viện chỉ có một chương tŕnh giáo dục phổ thông . Đến năm 1967, trườngKỹ Thuật được thành lập, và sang năm 1968, chương tŕnh giáo dục tổng hợop cũng được sáng lâp. Dần dần, khi số học sinh gia tăng , chính phủ tiến hành xây dựng các trường QGNT tại Huế, Đà Nẵng , Cần Thơ và Biên Ḥa ... để giúp đỡ các gia đ́nh trong khu vực có điều kiện học hành Sau 12 năm họat động, Viện Giáo Dục QGNT đă có 5 cơ sở trên ṭan quốc, với gần 400 giáo sư và trên 5000 học sinh từ tiểu học đến trung hoc.

Viện đă cung cấp hàng trăm học bổng từ nhiều quốc gia trên thế giới cho học sinh QGNT đi du học sau khi tốt nghiêp.

 

 

 

 

TẢi LiỆU LIÊN QUAN QGNT bằng ANH NGỮ:

 

From the Height of a Political Career to Exile
From 1969 to 1974, General Đồng served military personnel in a different capacity, Minister of War Veterans (equivalent to the US Secretary of Veterans Affairs). During this time, he worked with West Germany to get financial and medical support for disabled veterans. His relationship with German officials in Oberhausen resulted in military orphans or children of disabled veterans going there to further their education. Most of the students came from the seven ministry-sponsored Quốc Gia Nghĩa Tử schools. Minister Đồng's personal ties with Australian, Taiwanese and South Korean officials benefited Vietnamese veterans. During his tenure, Australia, Taiwan and South Korea provided much needed funding and training to disabled veterans at vocational facilities. His friendship with an American adviser Shelby Robert and his wife Miriam benefited the ministry as well. In April 1973, the Robert and the Gettysburg Presbyterian Church donated several wheelchairs and provided funding to train a Vietnamese doctor from the ministry. Later that year, the minister traveled to the United States and several western European countries to ask for financial assistance. The trip yielded good results: several US colleges provided the ministry with funding for the its prosthetic center. In particular, Ohio State University sent professors to train teachers and to teach QGNT's students in three special courses: typing, accounting and home economics.


Quốc Gia Nghĩa Tử = Ward of the Nation was a brainchild of Lieutenant Colonel Trương Khuê Quan who modeled it after France's "Office des Pupilles de la Nation". This independent agency was formed in October 1963 to provide educational opportunities for war orphans and children of war invalids/disabled veterans. In 1967, the Ministry of War Veterans took over the agency but continued to let it run by an independent management committee. By the end of the Vietnam War, QGNT had seven schools and 4 dormitories with over 200 teachers and an administrative staff close to 300 persons (most of whom were military widows, war disabled veterans and family members of soldiers who had died during the war).

 

 


LỊCH TR̀NH THÀNH LẬP CƠ QUAN
QUỐC GIA NGHĨA TỬ VIỆT NAM


Năm 1962, Y Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan là Cục Trưởng Cục Xă Hội Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa. Ông theo lệnh Bộ Quốc Pḥng thực hiện hai chương tŕnh Quân Tiếp Vụ và Trại Gia Binh để giúp đỡ gia đ́nh các quân nhân tại ngũ. Khi việc điều hành hai chương tŕnh này đă tạm ổn định, Cục Xă Hội tŕnh là việc lo cho quân nhân tại ngũ không th́ chưa đủ mà chính phủ c̣n phải nghĩ đến những chiến sĩ đă hy sinh cho chính nghĩa quốc gia nữa. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm chấp thuận ư kiến này và giao cho Bộ Quốc Pḥng nghiên cứu để thực hiện một chương tŕnh tương tự như Office des Pupilles de la Nation của Pháp. Để xúc tiến mau chóng đề nghị đă được sự ưng thuận của thượng cấp và biết rằng Ngân Sách Quốc Gia chưa có ngân khoản nào dành cho chương tŕnh này. Y Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan đă vận động các bạn hữu của ông để đóng góp tài chánh hầu bắt tay vào việc ngay được. Các bạn ông đă vui ḷng hưởng ứng và các vị sau đây đă chung góp mỗi người 200,000 đồng:

Ông Trương Văn Chôm, Khoa Trưởng Đại Học Dược Khoa.
Ông Nguyễn Văn Hoành, Chủ Tịch Hội Đồng Đô Thành.
Ông Đinh Văn Khai, Chủ Nhiệm Nhật báo Tiếng Chuông.
Ông Nguyễn Ang Ca, báo Tiếng Chuông.
Dược Sĩ La Thành Nghệ.
Dược Sĩ Nguyễn Thị Hai.
Dân Biểu Trương Văn Tố.
Bà Bút Trà, Chủ nhiệm báo Sàig̣n Mới.
Ông Vơ Văn Ứng, thương gia.
Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng.

Ngoài ra, Kiến Trúc Sư Trương Đức Nguyên nhận vẽ đồ án không lấy tiền thù lao và ông Trần Ngọc Tŕnh, thầu khoán cũng nhận xây cất không lấy lời.
Cục Xă Hội Quân Đội có nhận xét là nên khởi đầu bằng một ngôi trường và nên lấy danh xưng những con của tử sĩ và phế binh là Quốc Gia Nghĩa Tử (như chữ Pupilles de la Nation của Pháp, tránh chữ "trẻ mồ côi" có thể làm tủi ḷng những trẻ em này). Những đề nghị của Cục Xă Hội đều được chấp thuận và được ông Châu Ngọc Thôi, Đổng Lư Bộ Quốc Pḥng đă giao cho Đại Úy Bùi Trọng Chi, Tham Chánh Văn Pḥng, phụ trách việc nghiên cứu và dự thảo các văn kiện thủ tục giấy tờ thành lập cơ quan đặc biệt này.

Thấy là nếu làm theo Pháp, các Quốc Gia Nghĩa Tử sẽ trở thành gần như những Thiếu Sinh Quân, sẽ khó ḷng làm hài ḷng các gia đ́nh tử sĩ và phế binh, Bộ Quốc Pḥng đề nghị thành lập một Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc, một cơ quan tự trị có hoạt động rộng răi và dễ dàng hơn Trung Tâm Giáo Khoa Quân Đội (điều hành các trường Văn Hóa Quân Đội Sàig̣n, Đà Nẵng, Nha Trang, và Cần Thơ) đặt trực thuộc Cục Xă Hội Quân Đội. Mọi ư kiến đưa ra, khi tŕnh lên đều được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chấp thuận và mọi việc được lập tức khởi sự. Một thửa đất rộng lớn trên đương Chi Lăng, giữa khoảng Lăng Cha Cả và Ngă Tư Bảy Hiền, cánh Nghĩa Địa Pháp, trước Sở Chăn Nuôi, được lựa chọn và nhà thầu khởi công xây cất ngôi trường gồm hai ṭa nhà ba tầng, mỗi ṭa có 15 lớp học, cùng một Văn Pḥng cho Ban Giám Đốc trường, bao quanh một vườn hoa kiểu Nhật Bản. Công việc xúc tiến êm đẹp và đến tháng 8 năm 1963 th́ ngôi trường hoàn thành, đồng thời sắc lệnh thành lập Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc cũng được duyệt kư. Cuối tháng 9, ngôi trường được khánh thành do Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chủ tọa và đó cũng là lễ cuối cùng của ông trước khi bị sát hại trong cuộc đảo chánh 1-1-1963.

Niên học đầu tiên 1963-64 được khai giảng ngay sau những ngày đầu của cuộc đảo chánh. Đại Úy Đỗ Trọng Huề được cử làm Hiệu Trưởng, ông Trần Văn Bá, giáo sư thuộc Bộ Giáo Dục được biệt phái làm Giám Học và Trung Úy Trần Văn Mười làm Tổng Giám Thị.

Bộ Giáo Dục chỉ biệt phái được một số giáo sư (trong số này có 4 nữ giáo sư đầu tiên của trường là các cô Vơ Thị Ngọc Dung, Hồ Thị Ngọc Nữ, Nguyễn Lan Phương và Vơ Kim Sơn), Bộ Quốc Pḥng đă chọn thêm 15 giáo sư bị động viên có phiếu điểm tốt nhất để thuyên chuyển về trường hầu có đủ số giáo sư giảng dạy. Niên học đầu tiên đó, v́ chỉ nhận những em đă có án Quốc Gia Nghĩa Tử nên sĩ số chỉ lên đến khoảng 500 em. Mặc dù c̣n ít học sinh, Đại Úy Bùi Trọng Chi khi đó đang làm Giám Đốc Trung Tâm Giáo Khoa Quân Đội, cũng được cử kiêm nhiệm chức vụ Phụ Tá Hiệu Trưởng và HIệu Đoàn Trưởng để phụ trách thêm về các vấn đề ngoại học đường, đặc biệt là đức dục và thể dục như đă được ấn định trong nguyên tắc điều hành trường. Các nhân viên văn pḥng và giám thị được tuyển chọn trong số các quả phụ tử sĩ, phế binh và gia đ́nh. Đặc biệt, Quốc Gia Nghĩa Tử Trần Phương Mai, có bằng Tú tài toàn phần, đă được tuyển và là nữ giáo sư thứ 5 của trường.

Niên học thứ hai 1964-65, ông Bửu Trí, một giáo sư kỳ cựu của Bộ Giáo Dục, được cử thay thế Đại Úy Đỗ Trọng Huề bận quá nhiều công tác bên Quân Đội. Các gia đ́nh tử sĩ và phế binh nhận thức được việc chăm sóc tốt đẹp tại một ngôi trường thật rộng răi, khang trang nên đă nạp đơn tới tấp tại các ṭa án để xin án Quốc Gia Nghĩa Tử, do đó sĩ số đă tăng thật mau chóng, gấp đôi, gấp ba, chỉ sau một năm hoạt động.

Cuối năm 1965, văn pḥng Cuộc được xây cất xong trong cùng một khuôn viên. Y Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan được cử làm Cuộc Trưởng và Đại Úy Bùi Trọng Chi làm phụ tá. Cuộc gồm có 4 pḥng: Pḥng Hành Chánh, Pḥng Tài Chánh, Pḥng Học Vụ, và Pḥng Nghiên Cứu, mỗi pḥng do một chủ sự đảm trách. Cơ quan Quốc Gia Nghĩa Tử không c̣n giới hạn trong một ngôi trường nữa mà chính thức hoạt động rộng răi như được ấn định trong sắc lệnh thành lập. Pḥng tài chánh bắt đầu lập các sổ trợ cấp Quốc Gia Nghĩa Tử và pḥng nghiên cứu những công tác mở mang cơ quan tại Sàig̣n và trên toàn quốc. Ngân sách tự trị được chấp thuận bởi Hội Đồng Quản Trị gồm các vị đại diện các Bộ Nội Vụ (thay mặt các gia đ́nh những nhân viên dân chính bị sát hại), Bộ Quốc Pḥng (thay mặt các gia đ́nh tử sĩ và phế binh), Bộ Tư Pháp (chuẩn cấp các án QGNT), Bộ Tài Chánh (cung cấp ngân khoản cần thiết), và Bộ Giáo Dục (trợ giúp chương tŕnh học vụ).

Năm 1966, trường kỹ thuật được xây cất xong bên cạnh Văn Pḥng Viện và được hoạt động ngay mặc dù sĩ số hết sức khiêm tốn, với hai lớp sắt và máy nổ. Ngay những năm sau đó, khi nhận biết được sự lợi ích của nghề chuyên môn, số học sinh dần dần tăng lên gấp bội. Cũng năm 1966, khu nội trú được xây cất xong gồm 12 pḥng ngủ rộng lớn (mồi pḥng đủ chỗ cho 80 nội trú sinh) trong một ṭa nhà ba tầng lầu và một nhà ăn có đầy đủ bếp núc và các nhà để nhân viên nhà bếp ở (các nhân viên này đều thuộc gia đ́nh tử sĩ và phế binh, đa số là các quả phụ do Hội Quả Phụ Tử Sĩ giới thiệu vào làm). Nhà ăn được trang trí thêm một sân khấu mỹ lệ để dùng làm pḥng hội những khi có tổ chức lễ tết hoặc phát phần thưởng hàng năm. Khu nội trú cũng hoạt động ngay nhưng v́ ngân sách có hạn nên chỉ có thể nhận các em vào 4 pḥng ngủ ở tầng lầu hai mà thôi. V́ phải hạn chế số nội trú sinh nên chỉ nhận các em gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, sau đó, ưu tiên hai mới dành cho các em trong gia đ́nh đông con và ở xa Sàig̣n.

Năm 1967, Bộ Cựu Chiến Binh được thành lập, đă đổi QGNT Cuộc thành Viện Giáo Dục QGNT đặc trực thuộc Bộ nhưng vẫn giữ nguyên việc điều hành do Hội Đồng Quản Trị chỉ thêm Đại Diện Bộ Cựu Chiến Binh là Chủ Tịch Hội Đồng. Bộ cung cấp các phu8ơng tiện cần thiết, nhất là vấn đề trụ sở và nhân viên, dể Viện mở rộng hoạt động tại các tỉnh khác trên toàn quốc. Pḥng Tài Chánh của Bộ cũng phụ trách việc trả trợ cấp QGNT thay cho Viện để Viện chỉ phải chú trọng đến vấn đề giáo dục các QGNT mà thôi.

Niên học 1967 - 1968 là niên học đầu tiên của trường trung học QGNT Huế với sĩ số khoảng 100 em. Tết Mậu Thân, đầu năm 1968, trường sở bị hư hại hoàn toàn nhưng ngay năm đó trường đă được xây cất lại, đồng thời xây cất luôn một khu nội trú có thể nuôi dưỡng 50 nội trú sinh. Qua năm 1968, Viện mở thêm được trường trung học QGNT Đà Nẵng, sĩ số niên học đầu cũng chỉ được chừng 100 em, nhưng sau đó cũng như cũng như trường ở Huế, số học sinh trường Đà Nẵng cũng tăng dần lên tới 400 em vào niên học 1974 - 1975. Năm 1969, Viện mở thêm được trường tiểu học QGNT Biên Ḥa mà ngay niên học đầu tiên sĩ số đă lên đến khoảng 200 em. V́ các em này đều c̣n nhỏ nên tất cả đều được nuôi dưỡng trong khu nội trú cạnh trường.

Năm 1970, Viện xây thêm được một bịnh xá ngay sát khu nội trú, có một bác sĩ và một nhân viên làm việc hàng ngày vào buổi sáng để chăm sóc sức khỏe cho các QGNT thuộc cả hai trường trung học và kỹ thuật cùng khu nội trú. Viện cũng liên lạc với Bộ Chỉ Huy Công Binh Đại Hàn để giúp nhân công quân đội xây cất một thư viện phía trường kỹ thuật, vật liệu do Viện cung cấp. Trong năn, thư viện được hoàn thành và ngay sau đó được khánh thành do Đệ Nhất Phu Nhân chủ tọa buổi lễ.

Năm 1971, Viện mở thêm được trường trung học QGNT Cần Thơ, trường sở được xây cất do ngân sách của Viện đài thọ, chứ không như các trường Huế, Đà Nẵng và Biên Ḥa đều là những pḥng ốc của quân đội nhượng lại, chỉ cần sửa sang thành những lớp học. Ngay niên học đầu trường Cần Thơ đă có một sỉ số đáng kể, v́ vậy Viện đă dự trù xin ngân khoản để mở rông thêm và xây cất cả một khu nội trú nữa. V́ gặp nhiều khó khăn về tài chánh, công tác xây cất mới c̣n trong giai đoạn sơ khởi đă bị kéo dài và chưa khởi sự được th́ đă bị biến cố 30-4-75 chấm dứt.

Năm 1972, Viện xây thêm được 4 căn nhà dành cho nhân viên cao cấp của Viện gần bịnh xá và xúc tiến việc xây cất một khu nội trú dành cho nam sinh giữa nhà ăn và trường kỹ thuật. Khu này được hoàn thành năm sau gồm một ṭa nhà hai tầng lầu nuôi dưỡng được 100 em.

Với sự giúp đỡ và viện trợ của phái đoàn đại học đường Ohio, Viện tổ chức trường tổng hợp QGNT, dùng từng dưới cùng của khu nội trú nữ sinh gồm 3 lớp chính là lớp đánh máy, kế toán và kinh tế gia đ́nh. Trường chính thức hoạt động kể từ niên học 1973 - 1974, có mở thêm cả mấy lớp theo chương tŕnh trung học Đệ Thất, Đệ Lục. Khu nội trú nữ sinh như vậy là đă được sử dụng hoàn toàn cả 3 tầng lầu, tầng dưới cùng là trường Tổng Hợp, tầng lầu 2 là 4 pḥng ngủ nữ sinh và tầng lầu 3 là pḥng học tối cho nữ sinh nội trú, nhà nguyện cho các em theo Thiên Chúa Giáo và Niệm Phật Đường cho các em theo Phật Giáo.

Nếu không có biến cố 30-4-1975, Viện sẽ mở thêm khu nội trú Cần Thơ và trường trung học QGNT Qui Nhơn. Trường này dự định sẽ xây cất trên khuôn viên của một căn cứ do quân đội nhượng cho.

Tóm lại, sau 12 năm hoạt động Viện đă tổ chức được 7 trường và 4 khu nội trú. Tổng số giáo chức các trường lên đến 200 vị (đa số do Bộ Giáo Dục biệt phái) và trên 200 nhân viên làm việc (đa số là quả phụ, phế binh và gia đ́nh tử sĩ), đă chăm nom, dậy dỗ và nuôi dưỡng được cả mấy chục ngàn QGNT và lam nhẹ gánh nặng cho hàng chục ngàn gia đ́nh của các chiến sĩ đă hy sinh cho Chính Nghĩa Quốc Gia.

Các em là những người không được may mắn trong cuộc chinh chiến dài hơn hai thập niên đă được đền bù sự mất mát của ḿnh bằng một tương lai tươi sáng, chắc chắn sẽ trở thành những con yêu của Quốc Gia, xứng đáng với danh xưng Quốc Gia Nghĩa Tử.

NHUẬN KHÁNH - Bùi Trọng Chi
Nguyên Viện Phó Viện QGNT

 

Trường Trung Học Tổng Hợp QGNT

GIỚI THIỆU CHƯƠNG TR̀NH TỔNG HỢP


GS. TRẦN NGỌC HỒ
(Hiệu trưởng Trường Tổng hợp)


Chương tŕnh giáo dục lúc bấy giờ không đạt kết quả như mong muốn nên các nhà nghiên cứu cần phải đề ra một chương tŕnh mới phù hơp vói khả năng và điều kiện của Việt Nam ta. V́ thế Chương tŕnh Giáo dục Tổng hợp ra đời.


I. Giai đoạn chuẩn bị:


A. T́m hiểu kết quả giáo dục phổ thông
Sau khi nghiên cứu theo dơi kết quả 7 năm liên tục của 10 trường Trung học và của 10 lớp khác nhau có cả nam lẫn nữ, các nhà chuyên môn nhận thấy:
1. Chỉ có 2 học sinh trong số 100 học sinh Trung học mới lên được Đại học, học có kết quả và mới ra trường làm việc được, không phải đào tạo lại (2%).
2. Học sinh không đạt kết quả th́ đi đâu, làm việc ǵ? Có thể nói tới 75% không t́m được việc làm và hoàn toàn bế tắc trong việc mưu sinh với 7 năm ở trường trung học phổ thông ra. Kết quả thực là đau buồn và quá lăng phí.


B. Xây dựng một chương tŕnh giáo dục mới:
Chương tŕnh Giáo dục Trung học Tổng hợp:


1. Triết lư và mục tiêu Giáo dục Tổng hợp:
a. Mỗi con người đều có hoàn cảnh gia đ́nh, điều kiện tài chính, năng khiếu, ư thích, ước muốn, tâm lư khác nhau nên chương tŕnh đào tạo phải cung cấp cho họ những kiến thức, kỹ năng đa dạng, phong phú chi tiết khiến họ vào đời sớm thích nghi hơn.
b. Mục tiêu giáo dục Tổng hợp cung cấp cho học sinh kiến thức, kỹ năng bảo đảm cho họ vào đời dù mới 18 tuổi, kiếm được việc làm.
• đủ nuôi sống bản thân ḿnh
• giúp đỡ gia đ́nh
• góp sức với xă hội


II. H́nh dung kết quả đào tạo 2 chương tŕnh giáo dục.
Các nhà nghiên cứu giáo dục giáo dục đưa ra 2 h́nh ảnh tóm tắt kết quả đào tạo sau đây để dễ nhận định:


A. Chương tŕnh cũ:
H́nh tam giác cân được chia làm 3 phần theo chiều dọc (y axis của khung h́nh bên dưới)


Phần 1: Số học sinh giỏi, xuất sắc chiếm 1/3 của chiều dọc
Phần 2: Số học sinh khiển dụng chiếm 1/3 của chiều dọc
Phần 3: Số học sinh bất khiển chiếm 1/3 của chiều dọc
B. Chương tŕnh Tổng hợp (mới)
Được h́nh dung bằng một h́nh thoi, có diện tích tương đối, cũng được chia làm 3 phần chiều dọc (y axis của khung h́nh bên dưới)
Phần 1: Số học sinh giỏi, xuất sắc chiếm 1/3 của chiều dọc
Phần 2: Số học sinh khiển dụng chiếm 1/3 của chiều dọc c
Phần 3: Số học sinh bất khiển dụng chiếm 1/3 của chiều dọc


Như thế rơ ràng kết quả đào tạo theo chương tŕnh mới có hiệu quả hơn nhiều, v́ nó đáp ứng được mọi năng khiếu, ước nguyện và tố chất của học sinh nên khi ra đời, số học tṛ dễ có thể kiếm việc làm và thu nhập cao v́ đáp ứng được nhu cầu thiết thực của xă hội sẽ cao hơn . Xă hội không mất nhiều thời gian tiền bạc để đào tạo lại.


C. Chuẩn bị cán bộ và cơ sở vật chất để thực hiện chương tŕnh Trung học Tổng hợp:


1. Chuẩn bị cán bộ: một tài khoản viện trợ 500.000 USD để tập hợp các cán bộ đang quản trị học đường, giỏi ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng Pháp) đi học để nắm vững : Triết lư, mục tiêu, soạn thảo, thực hiện chương tŕnh, quản trị và phương pháp đánh giá. Khóa học kéo dài trong 6 tháng, mỗi tuần học 3 buổi tối, mỗi buổi học 2 giờ. Các thuyết tŕnh viên giảng dạy đều là các Giáo sư, các nhà nghiên cứu, soạn thảo, hướng dẫn nước ngoài (Mỹ, Anh, Pháp). Cứ sau mỗi buổi học th́ các học viên được nhận tiền bồi dưỡng ngay lúc ra về, ở ngoài cửa lớp. Khóa học đầu tiên đặt tại trường Sương Nguyệt Ánh.


2. Cơ sở vật chất: Chương tŕnh mới yêu cầu phải có cơ sở vật chất đáp ứng với nó nhưng v́ thời gian gấp rút vả chăng c̣n đang thể nghiệm nên không thể làm ngay. Trước mắt có 4 trường sau đây xây cất nên tạm thời có thể sửa chữa được thực hiện chương tŕnh Giáo dục Tổng hợp.


a. Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Saigon
b. Trường Sương Nguyệt Ánh
c. Trường Nguyễn An Ninh
d. Trường Kiểu mẫu Thủ Đức


III. Công việc thực hiện :
Sau khi đi học về, tôi được giao trách nhiệm thực hiện:


A. Cơ sở vật chất:
1. Trệt khu nội trú cũ:
a. Lớp thực hành Doanh thương tổng quát (General Business)
b. Lớp thực hành Công kỹ nghệ (Industrial Arts and Technology) mới mở được 3 lớp : In, Gỗ, Sắt.
c. Lớp thực hành Kinh tế gia đ́nh (Home Economics) dạy nấu ăn và may mặc có trang bị tương đối đầy đủ
d. Lớp Canh nông (Agriculture) mới chỉ dạy 2 môn: trồng trọt và chăn nuôi
Cuối dăy có xây một pḥng y tế 10 giường: 1 bác sĩ, 2 y tá, 2 điều dưỡng, chưa có nhân viên theo yêu cầu, chỉ có một bác sĩ làm việc bán thời gian.
2. Lầu một khu nội trú cũ :
a. Văn pḥng : Hiệu Trưởng, Giám thị
b. Ba pḥng học
c. Một pḥng Lab, học sinh ngữ 30 chỗ


B. Thực hiện chương tŕnh:
Chương tŕnh học được chia làm 8 ban, sau khi học sinh học tốt nghiệp với bằng Tú tài của 8 ban đó, đều có đủ điều kiện thi lên Đại học, nhất là chuyên ngành thời càng dễ đạt hơn không chuyên ngành.
Ban A: Ban Khoa học thực nghiệm (giống như bên Phổ thông)
Ban B: Ban Toán học (- nt -)
Ban C: Ban Sinh ngữ (- nt -)
Ban D: Ban Cổ ngữ (- nt -)
Ban E: Ban Doanh Thương Tổng quát (môn học và thời lượng khác hẳn)
Ban F: Ban Công kỹ nghệ (- nt -)
Ban G: Ban Kinh tế gia đ́nh (- nt -)
Ban H: Ban Canh nông (môn học và thời lượng khác nhau)
Các môn học và thời lượng đều theo Chương tŕnh Tổng hợp mới được soạn thảo và ban hành. Mỗi ban đều có môn học bắt buộc và nhiệm ư (nhiệm ư là học sinh có thể học hai hoặc ba môn ḿnh thích hợp trong số các môn trong chương tŕnh nhiệm ư)
Phương pháp hướng dẫn học sinh chọn ban:
Nhà trường có trách nhiệm thành lập ban Hướng dẫn tập hợp các bản kiểm tra và trắc nghiệm (tài liệu tạm thời ứng dụng ngân hàng trắc nghiệm của Viện Harris) được gởi tới hàng năm về:


1. Hai năm đầu (lớp 6, lớp 7) là hai năm Khám phá năng khiếu, tố chất.
2. Hai năm tiếp (lớp 8, lớp 9) là hai năm từng bước Hướng dẫn chọn lựa.
3. Ba năm sau (lớp 10,11,12) mới thực sự học Chuyên ban.


Phương pháp lượng giá: bằng các bài kiểm tra, tŕnh bày, nhất là trắc nhiệm (7 phép). Ở Việt Nam lúc đó chưa có Viện chuyên soạn thảo câu hỏi trắc nghiệm phục vụ đúng yêu cầu đánh giá nên c̣n cần phải sử dụng tài liệu của nước ngoài v́ phương pháp lượng giá rất quan trọng, nó vừa khách quan, vừa khoa học, chiếm tới 80 – 90% điều mà ta muốn hỏi. Nếu không học và không đủ tŕnh độ kiến thức về nhiều mặt, đủ thời gian và điều kiện kiểm tra, đánh giá, xếp loại độ khó của câu trắc nghiệm th́ không thể sử dụng được.


1. Độ khó A: Chỉ 10% học sinh Giỏi làm được.
2. Độ khó B: từ 20% - 25% học sinh Khá làm được
3. Độ khó C: 40% học sinh Trung b́nh làm được
4. Độ khó D: 60% học sinh Trung b́nh làm được (câu hỏi dễ)
5. Độ khó E: 75% học sinh Trung b́nh làm được (câu hỏi quá dễ)


Các câu hỏi trắc nghiệm phải được đánh giá độ khó mới đem ra thực hiện việc lượng giá, nếu không mục đích khó ḷng đạt được.
Vấn đề Lượng giá học sinh là một vấn đề khó khăn phức tạp không thể tŕnh bày rơ ràng một lúc cho hết được. Xin hẹn một dịp khác, nếu có yêu cầu.

 

Sự H́nh Thành và Cơ Cấu của Trường Tổng Hợp (TH)- Dưới Mắt của một cựu học sinh

Khởi Đầu:

Trường Tổng Hợp QGNT (TH QGNT) được thành lập vào khoảng tháng 10 năm 1972 sau khi niên khóa 72-73 bắt đầu, với một lớp 8, hai lớp 7 và hai lớp 6. Tất cả học sinh muốn vào TH đều phải ghi danh thi và đậu một cuộc thi trắc nghiệm được tổ chức năm đó bên trường Phổ Thông. Số pḥng học có giới hạn, và chương tŕnh mới mẻ, phong phú với sự bảo trợ của Đại học Ohio (Hoa Kỳ) nên số học sinh được tuyển chọn qua TH rất ít trong năm đầu tiên. Những năm sau đó th́ cuộc thi tuyển được tổ chức trong mùa hè, do các Thầy Cô trong trường TH làm giám khảo và tuyển chọn trước ngày khai giảng. Ngoài phần thi trắc nghiệm về những kiến thức thông thuờng và toán, trong cuộc thi tuyển thí sinh c̣n phải viết một bài luận văn theo đề nhà trường đưa ra.

Tôi c̣n nhớ rơ là khi nghe trường TH cho học sinh ở lại trường vào buổi trưa và được ăn cơm miễn phí trên khu nhà ăn nội trú, v́ chương tŕnh học kéo dài đến chiều, tôi vui mừng không tả được. Một trong những lư do khiến tôi nằng nặc đ̣i Má tôi rút hồ sơ sau lớp 6 trường Lê văn Duyệt SG để xin vào học trường QGNT là v́ một hôm xem TV, thấy phim thời sự nói về học sinh QGNT được ở nội trú, tôi mê quá, v́ tưởng ai học QGNT cũng được ở lại trường! Tuy không được ở nội trú v́ những lư do này nọ, tôi vẫn thuờng hay vào khu nội trú để hái hoa cúc nhật màu tím thật đẹp, mọc đầy trước sân dưới lầu khu nội trú nữ lúc ấy. Trường TH được thành lập ngay nơi "...tôi vẫn thuờng mộng mơ, nên chép thành bài thơ..."*, này! Vậy th́ tuy không được ở lại trường qua đêm, nhưng cũng được học, lang thang cả ngày ở một nơi tôi từng ao ước được đặt chân đến, cũng là "hạnh phúc trần gian" đối với tôi khi đó! Và tôi đă vô cùng may mắn khi được học ở ngôi trường lư tưởng này từ năm lớp 7, năm 1972, cho đến khi mất nước, 1975.

Chương Tŕnh Học và Những Đặc Điểm :

Mỗi lớp học ở trường TH chỉ có độ hơn 20 học sinh theo mô h́nh trường phổ thông hỗn hợp (comprehensive) bên Mỹ. Tôi c̣n nhớ khi được sắp hàng nghiêm chỉnh chào cờ lần đầu, thầy Hiệu Trưởng là Thầy Trần Ngọc Hồ đă nhắn nhủ tất cả chúng tôi là phải học hành chăm chỉ để không phụ ḷng kỳ vọng của Thầy Cô, và nhất là sự hy sinh của Cha và Mẹ chúng tôi. Thầy cũng chúc mừng chúng tôi đă đậu được cuộc thi tuyển chọn vừa qua, và v́ thế phải triệt để tuân theo kỷ luật của trường để xứng đáng được mang danh là học sinh trường TH.

Trường có pḥng thí nghiệm (lab) để chúng tôi có thể học các môn khoa học thực nghiệm một cách sống động. Một điều đặc biệt cho học sinh TH nữa là trường có pḥng thính thị để học ngoại ngữ. Đây là nơi mà lần đầu tiên tôi được thấy máy casette với cái ống nghe để học những bài nói, rồi trả lời, hay lập lại những câu tiếng Anh. Mỗi học sinh đều có bàn riêng để nghe máy, nên lớp học đàm thoại ngoại ngữ rất sống động và học sinh dễ dàng lĩnh hội kiến thức...

Chương tŕnh học của trường TH gồm những môn học được giảng dạy trong các trường phổ thông vào buổi sáng, và những lớp như thể thao, hội họa, âm nhạc, và nghề thực dụng vào buổi chiều, sau khi ăn cơm trưa và nghỉ ngơi trong pḥng ăn khu nội trú. Xin được nói sơ về chương tŕnh "nghề" của trường TH sau đây:

Nam sinh được chọn 2 trong ba chương tŕnh dạy "nghề": Công Kỹ Nghệ, Doanh Thuơng hay Canh Nông. Nữ sinh được chọn 2 trong ba chương tŕnh học nghề: Kinh Tế Gia đ́nh, Doanh Thuơng và Canh Nông. Hầu như nam sinh nào cũng chọn Công kỹ nghệ, và hai lớp c̣n lại th́ số nam sinh thuờng chia đôi ra theo sở thích cá nhân.

Bên nữ sinh th́ tất cả đều học Kinh Tế Gia Đ́nh, và đa số chọn thêm lớp Doanh Thuơng. Tôi và Vũ thị Huyền là hai nữ sinh duy nhất trong lớp Canh Nông lớp 7 với số học sinh chỉ độ mười người trong năm đầu. Chương tŕnh lớp Canh Nông lớp bảy gồm những kiến thứ căn bản về hóa học của đất đai, nước, môi sinh và những yếu tố cần thiết trong việc canh nông...Trong phần thực tập Canh Nông năm đó, chúng tôi được trồng bắp, cà chua. Lúc "làm vườn" nữ sinh không mặc áo dài, mà phải thay áo ngắn. Để cho giống "dân quê", tôi đă "xí xọn" khẩn khoản Má tôi may cho cái áo bà ba màu đen để mặc khi thực tập dù màu đen bắt nhiệt, thực tập trong nắng chói chang nóng ơi là nóng! Thực t́nh tôi mê lớp này hơn cả môn Kinh Tế Gia Đ́nh. Viễn ảnh một ngày nào đó, những kiến thức tôi có được sẽ làm cho đồng ruộng và cả những vùng sỏi đá khô cằn, những nơi bị bom đạn chiến tranh tàn phá được khai khẩn và làm cho mầu mỡ lại nhờ khoa học và những phát minh về Canh Nông đă đeo đẳng, thôi thúc tôi thật lâu...Chỉ tiếc là năm sau đó, v́ chỉ c̣n một ḿnh tôi ghi danh học Canh Nông, lớp 8 đă không có môn Canh Nông niên khóa 73-74, và tôi đă bị "ép" vào lớp Doanh Thuơng.

Trong lớp Doanh Thuơng, học sinh được học đánh máy, kế toán, cách viết thư gửi đi trong những công sở thuờng ngày...Đa số các bạn đều có vẻ thích thú với lớp học này.

Lớp "nghề" cho nữ sinh mà ai cũng thích là môn Kinh Tế Gia Đ́nh v́ lư do dễ hiểu ... Ngoài làm bánh, nấu ăn, may vá thêu thùa, chúng tôi c̣n học về cách thức xếp bàn ăn, bày biện, trang hoàng, và tính toán dựa theo số ngụi để làm một buổi tiệc, kiểu VN và kiểu Tây! Cách thức chào hỏi xă giao, lịch sự thông thuờng trong đời cũng được giảng dạy trong lớp này. Phải nói nhờ lớp học này mà khi qua Mỹ, tôi đă có thể kiếm thêm tiền khá dễ dàng để phụ gia đ́nh lúc c̣n đi học (tôi làm bánh đám cưới, sinh nhật và may áo dài cho đồng huơng trong cộng đồng tỵ nạn). Mỗi lần làm bánh hay may vá, tôi luôn nhớ với ḷng biết ơn sâu xa đến quư Cô đă hết ḷng dạy cho chúng tôi cách làm bánh thật ngon, thật đẹp, và nhất là biết cắt may để có thể mưu sinh sau này dễ dàng hơn, trong mọi hoàn cảnh khó khăn...

Phía nam sinh th́ chương tŕnh học công kỹ nghệ có lẽ không khác mấy với trường Kỹ Thuật. Các bạn được học vẽ họa đồ, làm thợ mộc, g̣ hàn, cơ khí, điện, máy công cụ...

Niên khóa 74-75 là năm đầu tiên các học sinh lớp 10 được chọn ngành để sau khi ra trường với bằng trung học từ trường TH sẽ có thêm chúng chỉ về một nghề nào đó. Rất tiếc là v́ biến cố 75, trường đă vĩnh viễn đóng cửa, và không có một học sinh nào được cái vinh dự ra trường như dự kiến...

Kỷ Luật/Sinh Hoạt Thuờng ngày:

Về đồng phục th́ nữ sinh mặc áo dài trắng, nam sinh mặc quần xanh , áo trắng, và để phân biệt với học sinh của trường PT, ng̣ai phù hiệu trường QGNT được may lên áo, chúng tôi phải mang một bảng tên màu bằng plastic, có kim gài trên áo. Cái bảng tên này do gia đ́nh của mỗi học sinh tự lo liệu, đặt làm theo khuôn khổ và màu sắc được đưa ra bởi trường. Trên bảng tên có hàng chữ nhỏ ghi tên trường, và tên của học sinh (chữ lớn hơn), đều màu trắng. Mỗi cấp lớp có một nền màu bảng tên khác nhau (ví dụ như màu vàng cho lớp 6, màu đỏ cho lớp 7, v.v..). V́ trường mới, nhỏ, và tương đối quá lư tưởng, nên dù kỷ luật khá khe khắt, chúng tôi đều cảm thấy hănh diện làm học sinh TH. Thầy cô cũng thuờng xuyên nhắc nhở là chúng tôi được chọn lọc vào một chương tŕnh học phong phú, phát triển mọi năng khiếu tiềm ẩn trong mỗi chúng tôi, tương lai có lẽ được "bảo đảm" hơn, nên rất hiếm khi có những vi phạm kỷ luật bởi học sinh TH trong 3 năm trường mở cửa...

Ngoài khung cảnh thơ mộng, lớp học của trường TH có bàn ghế mới toanh, pḥng học sạch sẽ, sáng sủa. Lớp ít học sinh nên thầy cô có thể để ư theo dơi chúng tôi rất kỹ. Thầy Hồ, hiệu trưởng trường, với dáng vẻ ung dung, uy nghi lẫm liệt, "đi tuần" thuờng xuyên, nên việc học hành của học sinh TH có thể nói là ở trong một môi trường vô cùng lư tưởng...Trường được bảo trợ bởi đại học Ohio nên thỉnh thoảng chúng tôi cũng có những nhân viên từ trường ấy qua thăm viếng để xem xét mọi tiến triển, thành quả của học sinh trong trường.

V́ học cả ngày nên chúng tôi được ăn cơm trưa ở trường cùng pḥng ăn với học sinh ở nội trú. Sau lớp học buổi sáng, quư Thầy Cô giám thị dắt chúng tôi đi ăn và nghỉ trưa ngay bên pḥng ăn của khu nội trú. Những bữa ăn đều có đầy đủ thức ăn thật ngon lành, bổ dưỡng. Thế nhưng thỉnh thoảng tôi cũng theo Dịu Hiền, ngụi bạn thấn thiết nhất của tôi trong những năm bên TH, ra ăn cơm trưa với Mẹ Hiền là Cô Mộng Điềm, ở thư viện.

Sinh Hoạt Hiệu Đoàn:

Trường TH cũng có một đội banh, một ban hợp xướng do Thầy Phạm Nghệ huớng dẫn, điều khiển. Mỗi năm để chuẩn bị cho Tết, chúng tôi có cuộc thi đua làm bích báo, văn nghệ Tất Niên, và khi có báo Xuân, chúng tôi "được" đi bán báo! Đi bán báo là một trong những "công tác" để lại cho tôi nhiều kỷ niệm thiết tha nhất với Thầy Cô và các bạn ở trường TH.... Niên khóa 72-73 chúng tôi không có ra báo Xuân, nhưng năm sau, NK 73-74, chúng tôi có ra tờ báo Xuân 1974 riêng biệt của trường. Năm 74-75 th́ có lẽ v́ ngân quỹ ít, chúng tôi đă làm Đặc San Xuân chung với trường Kỹ Thuật. V́ trường ít học sinh, chúng tôi thuờng xuyên có những buổi du ngoạn toàn trường thật vui và ấm cúng. Tất cả Thầy Cô của trường luôn tháp tùng chúng tôi trong những dịp du ngoạn ngoài trời này, và khi hè đến th́ chúng tôi cũng được tham dự trại hè với các anh chị trường PT và KT ở trường Thiếu Sinh Quân.

Hè 73, cùng với 5 anh bên trường PT và KT, tôi được "đại diện" trường TH để tham dự trại hè toàn quốc ở Nha Trang với các trường trung học Sài G̣n như Chu Văn An, Trưng Vương, v.v.. Đây là lần đầu tiên tôi xa nhà cả tuần lễ, nhưng thật t́nh, được tung tăng cả ngày trên một thành phố biển hiền ḥa thơ mộng với cảnh lạ, bạn mới, và nhất là được mấy anh bên PT và KT cưng ch́u, tôi đă không nhớ nhà mấy và đă cảm nhận cái t́nh QGNT hơn lúc nào hết.

Ban Đại Diện trường TH cũng được họp thuờng xuyên với thầy Hồ, thầy Quảng, để được quư Thầy huớng dẫn, khuyên nhủ trong những công việc, sinh hoạt chung. Năm 74-75, làm trưởng ban Báo Chí, và tuy cũng thuộc loại học sinh chăm chỉ, ham học, nhưng thực t́nh mỗi lần được giấy gọi đi họp, ḷng tôi lại lâng lâng vui sướng v́ trong cái trí óc đơn giản của tôi lúc ấy, tôi đă được quư Thầy Cô tin và được xem là "ngụi lớn"! Khi không khí Sài G̣n bắt đầu căng thẳng với những tin trên TV về các cuộc thảm sát dân lành, trẻ em bởi Cộng Sản được biết đến, chúng tôi cũng nô nức muốn xuống đường biểu t́nh, như một số những học sinh, sinh viên thời ấy. Đó là lần đầu, và cũng là lần duy nhất BDD chúng tôi đưa lên lời thỉnh nguyện, xin phép cho chúng tôi được đi biểu t́nh "Đả đảo CS" với các anh chị! Thầy Hồ đă gạt phắt ngay v́ cho chúng tôi là "con nít", làm sao biết được chuyện ǵ sẽ xảy ra khi đi biểu t́nh. Lúc ấy , trưởng BDD là Nguyễn Thành Lâm, lớp 10, tức lắm, mặt đỏ lên, sau buổi họp rồi vẫn ấm ức măi, nên tôi đă phải khuyên Lâm là: "Đây là v́ thầy thuơng và lo cho tụi ḿnh, nên mới không cho phép đó thôi". Hồi tưởng lại, ḷng không khỏi ngậm ngùi tiếc thuơng cho tất cả chúng tôi, cho khoảng đời đầy ước mơ, lư tưởng bên nhiều tai ương nghiệt ngă...

Những kỷ niệm êm đềm với cảm giác được ân cần săn sóc ở trường đă đeo đẳng măi trong tâm trí khiến ḷng tôi luôn bồi hồi xúc cảm, ray rứt không nguôi mỗi khi nhớ đến...Bao nhiêu năm rồi nhưng những ngày c̣n được cắp sách đến trường THQGNT là những ngày tôi cảm thấy đời sống có mục đích, lư tưởng nhất trong tất cả 16 năm được sinh ra lớn lên trên đất nước VN.

Xin chân thành, trân trọng cảm ơn tất cả quư Thầy Cô, và những ân nhân của trường đă cho chúng con một môi trường giáo dục chứa chan niềm ưu ái, nơi chúng con được may mắn hết sức khi thu nhặt, lĩnh hội kiến thức và rèn luyện nhân cách, kết đọng những chân t́nh trong sáng khó phai với quê huơng, thầy cô và bè bạn...

Vơ thị Minh Phượng
Tháng tư, 2013

*: trích từ lời của bản nhạc "Lan và Điệp"
 

Trường Trung Học KỹThuật QGNT

Giáo sư  Đỗ Trọng Hòa

Trường Trung học Kỹ thuật QGNT đựơc ra đời bởi nghị định số : 0615/QP/ND ngáy 30 tháng 11 năm 1965.  Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 vừa được 9 tuổi rưỡi, Vời BA VỊ HIỆU TRƯỞNG như sau :
* Thày Nguyễn Hữu Thông (1965-1969). Từ 1969 đổi về làm Trửơng khoa Tóan Trừơng Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
* Thày Phan Văn Cự (1969-1970). Hiện đang ở San Jose, California USA
* Thày Đặng Trần Dư ( 1970-1975).Hiện ở San Jose, California, USA

CÁC VỊ GIÁM HỌC :
*Thày Huỳnh Hữu Tâm ( Thuyên chuyển đi nơi khác năm 1971)
*Thày Đỗ Đại Thanh Vân

CÁC VỊ TỔNG GIÁM XƯỞNG :
*Thày Bùi Văn Đắc
*Thày Trần Khắc Lượng ( Thế Thày Bùi Văn Đắc)- Thày Lượng đang ở tai Pháp Quốc

CÁC VỊ HIỆU ĐOÀN TRƯỞNG :
* Thày Huỳnh Thanh Hải ( Sau về Xưởng Kỹ Nghệ Họa)
* Thày Huỳnh Sơn Cương

CÁC VỊ TỔNG GÍAM THỊ :
*Thày Huỳnh Văn Lâụ
* Thày Bùi Văn Đắc ( Thay thế Thày Huỳnh Văn Lâu trở về xưởng)

CÁC VỊ GIÁM THỊ :
* Thày . . Liêm - Cô Nguyễn Thị Liêm ( Cô Liêm đang ở Osaka-Japan)

CÁC VỊ NHÂN VIÊN VĂN PH̉NG:
* Ông Nguyễn Văn Thành.
* Ông. . . Đường
* Cô . . Ánh
* Ông . . . & Ông. . .


Trừơng đựơc xây cất trên một diên tích gần 30.000 mét vuông, với một dăy nhà trệt ,kiến trúc theo lối học xửơng, theo kế hoạch dự trù, các pḥng học sẽ được xăy că't thêm về sau.Ta.m thời để đáp ứng cho nhu cầu cấp bách buổi đầu, trường được chia thành 5 học xưởng và 8 pḥng học. Về máy móc trang bị , lúc đầu do các cơ quan Hoa Kỳ chuyển nhượng đươ,c một số ít máy móc chia đều cho các học xưởng. Về sau, do ngân sách tự trị của Viẽ.n Giáo dục QGNT Trường được trang bị dần thêm các loại máy móc , dụng cụ va bàn ghếv. v. . . Riêng xưởng điệ tử vào năm 1970 đă nhận được sự viện trợ của Chính Phủ Ư Đại Lợi , gồm các máy móc ,dụng cụ tối tăn , cộng thêm các tài liẽ. hướng dẫn giảng dậy thật phong phú. Ngoài ra học xưởng Điện tử c̣n đươc tân trang với bàn ghế hoàn toàn mới có máy điều ḥa không khí nữa.


Trường KT-QGNT trực thuộc Viện Giáo dục Quốc Gia Nghĩa Tử (Bộ Cưụ Chiến Binh) về hành chính và tài chính , nhưng về chuyên môn Trường lại lệ thuộc Nha Kỹ Thuật và Chuyẽn Nghiẽ.p Học Vụ ( Bộ Giáo Dục). Ngay trong niên khóa đầu tiên trường đă mở được 2 lớp chính thức theo đúng học tŕnh của Nha Kỹ Thuật va Chuyên Nghiệp Học Vu.. Bên cạnh đó trường c̣n mở thêm các lớp huấn nghệ đoản kỳ, để giúp đỡ các học sinh QGNT muốn sớm có một nghề mưu sinh. Qua qúa tŕnh đào tạo, trường đă cấp bằng tốt nghiệp cho hon 300 học sinh tốt nghiệp các lớp Đoản kỳ bao gồm các ngành như : Cơ khí ô tô - Kỹ nghệ họa - May cắt - Kỹ nghệ gỗ - Kỹ nghệ săt - Điện nhà và Điên tử.
Các học sinh chính thức của trường tới năm 1975 gồm Ban Kỹ Thuật Toán và các Ban Chuyên nghiệp khác , từ lớp 9 tới lớp 12 tổng cộng trên 300 học sinh theo học.

Sau ba mươi mốt năm biến động, tang thương dâu bể, vật đổi sao dời, trí nhớ chỉ c̣n nhớ đươc. một số các chi tiết trên , xin ghi vội ra đây ,hy vọng giúp' các "cựu học sinh KT-QGNT" năm xưa hồi tưởng laị chút ân t́nh" thày tṛ cũ" hay ít "kỷ niệm xưa"với ngôi Trường KT-QGNT dấu yêụ Có ǵ sai sót, mong các em bổ túc thêm và bỏ qua cho nhe!-năm nay vừa sáu mươi rồi- Tiện đây tôi cũng xin bầy tỏ ḷng cám ơn và sư cảm động vô cùng trước sự tiếp đón nồng hậu của các Bạn hữu cũng như của các cựu học sinh KT-QGNT đădành cho tôi trong chuyến "hạnh ngộ " tai California vừa quạ Những t́nh cảm cũng như những kỷ niệm đẹp đó , tôi sẽ trân qúy và mang theo maĩ suốt quăng đờị c̣n laị

- Đỗ Trọng Ḥa - Tokyo - Japan -

DANH SÁCH CÁC

THÀY- CÔ CÁC BỘ MÔN KỸ THUẬT VÀ VĂN HÓA

* Xưởng Kỹ nghệ Gỗ:

Thày Nguyễn Ngọc Anh.


* Xưởng Kỹ nghệ Sắt :

Thày Nguyễn Thế Thọ -

Thày Nguyễn Cao Mỹ.(Thày Mỹ ở USA)-

Thày Vương Thành Phát

* Xưởng Điện Nhà:

Thày Phạm Van Ḥa

( Sau thuyên chuyển về Công Ty điện lực )
Thày Hồ Văn Thành


* Xưởng Cơ Khí Ô Tô :

Thày Hồ Văn Miêng ( Sau thuyên chuyển về Công Ty điện lực )
Thày Vơ Phú Cường
Thày Trịnh Văn Thông


* Xưởng Nữ Công Gia Chánh - Kinh Tế Gia Đình

Cơ Triệu Thị Chơi
Cô Nguyễn Thi Xưng Huê
Cô Trầm thi Tuyết.


* Xưởng Điện Tử :

Thày Phan Tấn Chữ.(Tạ thế năm 1978)
Thày Đỗ Trọng Ḥa


* Xưởng Kỹ Nghệ Họa : Thày Huỳnh Thanh Hải
Thày Nguyễn Khoan Hồng (Đang ở SEATLE-USA).
Thày Đỗ Đại Thanh Vân

 

 

DANH SÁCH CÁC

 THÀY CÔ CÁC BỘ MÔN VĂN HÓA :

*Sử Địa Cơng dân :

 Thày Ngô Đức Hải (San Jose- USA)
Thày Nguyễn Khoan Hồng


*Anh Văn

Cô Đỗ Thị Phụng

Thầy Phạm Trọng Phu

Đỗ Thị Kim Châu


*Việt Văn

Thày Bùi Dă


*Tóan

Thày Nguyễn Thành Vân
Thày Nguyễn Văn Sự
Thày Nguyễn Phúc Thọ
Thày Nguyễn Văn Định
Thày Nguyễn Chí Thông


*Lư Hóa

Thày Trần Khắc Lượng (Pháp)
Thày Nguyễn Văn Hồng
Cô Nguyễn Thị Ḥa


*Triết

Thày Nguyễn Lộc Thọ


*Pháp Văn

Thày Ninh Thế Việt



Trường QGNT Huế

 

Trường QGNT Huế cũng như các trường QGNT khác, đều trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh, Viện Giáo Dục Quốc Gia Nghĩa Tử SaiGon.
Lúc bấy giờ là năm 1967.

 

Bộ Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh:
Bác Sĩ Nguyễn tấn Hồng

Đổng Lư Văn Pḥng:
Đai Tá Phạm Gia Cầu

Viện Truởng Viện Giáo Duc QGNT:
Y Sĩ Trung Tá Truơng Khuê Quan

Phụ Tá Viện Truởng:
Thiếu Tá Bùi Trọng Chi

 

Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Huế toa lạc tai"Ngă Tư Anh Danh Thành Nội Huế".Cổng chính của trường ở trên đuờng Đinh Bộ Lĩnh, hiên nay đổi tên thành Đinh Công Tráng,đuờng này đi thẳng ra cửa Thượng Tứ.


Mặt trường nh́n ra đường Bộ Thị,nay đổi là đường Nguyễn Hiệu. Sau lưng trường là đường Mai Thúc Loan,đường này đi thẳng ra cửa Đông Ba. Hông trường giáp Viên Dục Anh.

 

Năm 1953, đây là khuôn viên trường Thiếu Sinh Quân,sau đó trường Thiếu Sinh Quân dời vào Vũng Tàu. Khuôn Viên này đươc giao cho Đơn vi mũ đỏ Hiến Binh.Sau khi Hiến Binh giải thể, lai được giao cho đơn vi mũ đen Quân Cảnh.


Đơn Vị Quân Cảnh dùng làm văn pḥng và làm Trại gia binh.Tháng 7/1967,khuôn viên này được Quân Cảnh giao cho Bộ Cựu Chiến Binh,để thành lập truờng Quốc Gia Nghĩa Tử Huế. Bộ Cựu Chiến Binh lệnh cho Ty Cựu Chiến Binh ở Huế cho tu sửa, chỉnh trang pḥng ốc các lớp đồng thời thu nhân hoc sinh. Anh Châu Văn Kham,(hiện nay đang sinh sống ở Vũng Tàu),thuôc Ty Cựu Chiến Binh Huế là nguời có công trưc tiếp, cấp tốc chỉnh trang trường ốc.

 

Tháng 8/1967,Y Sĩ Viện Truởng Truơng Khuê Quan bận công du nước ngoài,Thiếu tá Bùi Trọng Chi,Phụ Tá Viện Trưởng, lệnh cho tôi, Giáo Sư trường QGNT Sài G̣n về làm Hiệu Truởng Trường QGNT Huế, trước mắt là lo t́m mời Giáo Sư và sắp xếp sĩ số học sinh cho các lớp để kịp khai giảng niên khoá đầu tiên (1967-1968) cùng với mùa khai trường các trường trung học Công Lập ở Huế.


Tháng 9/1967 trường QGNT Huế đă chính thức khai giảng niên khoá dầu tiên, cắt băng khánh thành trường là Thiếu Tuớng Hoàng Xuân Lăm, Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật và Đai tá Lê Văn Thân, Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên. Sĩ Số hoc sinh ngày khai trường là 100 em, về sau sĩ số tăng lên 400 em.


Tháng 1/1968, trường được bàn giao cho Hiệu Truởng mới là Giáo Sư Hoàng Hữu Tiếu, nguyên là Chánh Thanh Tra Trung Học thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục, được biệt phái sang Bộ Cựu Chiến Binh.


Trong biến cố Tết Mậu Thân(1968), trường hư nát quá nặng nề, sau trường được xây dựng lại toàn bộ, xây dưng thêm Khu Nội Trú và thu nhận 50 Em vào Nôi Trú Sinh.


Sau đây là danh sách nhân viên đă phục vụ cho trường QGNT Huế, mà tôi được biết (có thể c̣n nhiều Thầy Cô và nhân viên nhà truờng tôi không biết hoặc không nhớ)


Hiệu Trưởng:

Phan Văn Cự:(San Jose)
Hoàng Hữu Tiếu:(Passed away Lục Tỉnh)
Bửu Đôn:( Huế, Sài G̣n)

 

Nữ Giáo Sư:

Nguyễn Khoa Diệu Tùy(Sài G̣n):Anh-Pháp Văn
Phan Thị Thu Vân:Quốc Văn
Phan Thi Thanh Tâm(Bác Sĩ Texas)
Truơng Thi Đạm Tuyết(Sanjose)
Phan Thi Nhật Lệ(USA)
Truơng Thị Lai:Quốc Văn
Huỳnh Thị Trung:Vạn vật
Nguyễn Thi Lệ Hằng:Thể Dục
Cô Nghê:Sử Địa

 

Nam Giáo Sư:

Nguyễn Thắng Thưởng(Huế):Hội Họa
Nguyễn Hứa Hàm:Thể Dục
Tạ Ngọc Minh:Anh văn
Lâm Quốc Tuyên(Huế):Quốc Văn
Hoàng Mạnh Quân:Sử Địa
Đinh Tấn Hùng:Toán-Lư Hoá
Phạm Mạc Trường Ly Phương:Nhạc
Đăng Công Toạị:Quốc Văn
Thầy Quế:Toán-Lư Hoá
Thầy Quân:Công Dân

Giám Thi & Nhân Viên:

Nguyễn Văn Huyền:Tổng Giám Thị- Huế
Nguyễn Mê:Phu Tá Giám Thị Nội Trú
Nguyễn Thu:Giám Thị
Bác Tháo:Cai Trường
Bà Thệ:Lao Công

 

Tổng kết,trường Quốc Gia Nghĩa Tử Huế vừa thành lập và hoạt động được khoảng 8 năm cho đến ngày 26/3/75 th́ trường đă bị mất cùng với sự bỏ ngỏ Huế.


Măi cho đến sau Đai hôi QGNT/92 vừa qua khi gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử Việt Nam được thành lập tại Hoa Kỳ, th́ Anh Chi Em Quốc Gia Nghĩa Tử Huế mới bắt đầu ngồi lại với nhau chia sẻ những "đắng cay, ngọt bùi" mà cuộc đời đă chất chồng đè lên thân phận của chúng ta.


Chúng ta Cầu Chúc toàn thể các Anh Chị Em QGNT Huế luôn gặp nhiều may mắn hơn trong tương lai!
 
Giáo Sư Phan Văn Cự

Vị hiệu trưởng QGNT Huế và học sinh QGNT Saigon và Huế

 

TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ

ĐẰ NẴNG : 1967 - 1975

 

Cô Nga và cô Hiếu trước trường QGNT Đà Nẵng

 

Thày Nguyễn Khuê nhận công vụ từ Viện trưởng viện Giáo dục QGNT Saigon tổ chức một trường trung học QGNT tại Đà nẵng năm 1967.


Trường Q Đà nẵng được tồ chức ngay trong Ty Cựu chiến binh tại đường Hùng Vương thị xă Đà nẵng .. Cơ sở ban đầu sữ dụng tạm 2 dăy nhà ; 1 mái ngói , 1 mái tole , tường vôi cũ kỷ với 4 pḥng sữ dụng làm lớp học . Văn pḥng ban Giám hiệu dặt nhờ trong văn pḥng của Ty CCB .


Trường QGNT Đà nẵng khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 9 - 1967 .


Niên khóa 1967 – 1968: là khóa 1 , với 2 lớp 6 : Nam , Nữ với sĩ số 100 HS .Mỗi năm tăng dần lên 2 lớp .


 * 8 năm hoạt động có 7 khóa học : K1 , K2 ,K3 ,K4 , K5 , K6, K7 với khoảng 700 HS .


Hiệu trưởng đầu tiên là Thày NGUYỄN ÍCH XUÂN , Thư kư Thày TRẦN NGỌC XUẤT , bác cai trường Đặng Lỡ . Trường chỉ có 2 giáo sư phụ trách tất cả các môn học cho 2 lớp 6 Nam sinh và Nữ sinh
Thày HOÀNG TRỌNG NỒNG ,
Cô TRINH THỊ NGỌC BÍCH .

Năm học 1968 – 1969 : Hiệu truong là thày NGUYỄN HOA.( thay thày Nguyễn Ích Xuân ).Niên khóa đầu tiên chưa có đũ nhân sự để thành lập ban Giám hiệu .

Giáo sư có thêm cô TRẦN THỊ MAI HOA : Lư hóa
thày NGUYỄN VĂN NGỌC : Việt văn
Cô BÙI THỊ PHƯƠNG LAN : Sữ - Địa
Thày VĨNH DIỆN : Nhạc
Cô HOÀNG THỊ YẾN : Vẽ

Trường tuyễn thêm 2 lớp 6 : K 2 = 100 HS .

Năm học 1969 – 1970 : Trường them 2 lớp 6 K 3

Giáo sư đă có thêm thày HUỲNH SƠN CƯƠNG : Toán .
Thày NGUYỄN NHUNG ĐÍCH : Anh văn .
Năm học 1970 – 1971 : K 1 đă lên lớp 9 , trường tiếp tục tuyễn them 2 lớp 6 : K4 .

Tổng số học sinh bây giờ 400 .

Thày TRỊNH ĐƯƠNG : Toán ,

Thày PHAN Đ̀NH ÁNH : Anh văn .

Năm học 1971 – 1972 : Truong mới khánh thành tại đường Hùng vuong .Trung tâm thị xă DN Trường trung học đệ nhị cấp QGNT – Đà nẵng dẹp khang trang với tổng số học sinh lúc đó là 500 HS gồm : 2 lớp 6 , 2 lớp 7 , 2 lớp 8 .2 lớp 9 , 2 lớp 10 .( K 1 là hoc sinh . 2 lớp 10 đầu tiên của trường Q Đà nẵng , lớp 10 A và lớp 10 B là khóa đàn anh của DN tuong duong Q 74 SG ).-
Hiệu trưởng là thày TÔN THẤT DƯƠNG KỲ .Giáo sư Pháp văn từ trường Phan Châu Trinh chuyễn về .Giám học là thày Phạm Sỹ Tấn . Hiệu đoàn trưỡng kiêm Tổng giám thị : thày Hoàng Trọng Nồng .
Năm học 1972- 1973 : Trường tuyễn thêm 2 lớp 6 .K5 : Tổng số HS là 600 .
Thày cô đă tăng thêm :
Cô TẠ ĐẠO HUỆ : Anh văn
Cô LÊ THỊ MINH TÂM : Việt văn
Cô LÂM THÚY HẬU : Anh văn
Cô NGUYỄN THỊ HẠNH : Sữ - Địa
Cô NGUYỄN THỊ ÁI : Vạn vật ( nhà văn Thùy An )

Niên khóa 1973 – 1974 : K 6 với 100 hs cho 2 lớp 6 Nam và nữ sinh

Niên khóa 1974 – 1975 : K 7 tiếp tục h́nh thành . Tổng số học sinh là 700 .


27/12/2012.
Anh Anh –Q 74

 


 

 

Trường QGNT Biên Hoà

 

Bà Phan thị Dần, là chị cả của giáo sư Phan văn Cự, trước Tết Mậu thân 68 là hiệu trưởng trường Nam Ngọc ở Huế. Sau biến cố Mậu thân bà được bác sỹ Viện trưởng Viện Giáo Dục QGNT can thiệp với bộ giáo dục đưa bà về làm hiệu trưởng trường QGNT tại Tân Vạn Biên hoà từ lúc mới thành lập cho tới  năm 1975.

 

Bà cựu hiệu trưởng nay đã trên 90 tuổi và đang sinh sống tại Saigon và con là Tôn Nữ Diệu Nguyện, là cựu học sinh trường QGNT Tổng Hợp.
 

 

 

........Niên khóa 1971-1972, gia đình tôi ở Mỹ Tho, biết tin có trường QGNT Biên Hoà, cấp tiểu học, ở ngã ba Tân Vạn, cạnh xa lộ Biên Hoà nhận nội trú, nên mẹ tôi có cho cậu em trai thứ sáu, sinh năm 1962 học lớp ba ở đây. Cuối tuần có gia đình người cậu họ ở Thị Nghè, cũng là bố nuôi của chị Thanh Thủy Q72 đón về.

 

Tôi cũng có ra khu nội trú đón cậu em trai này. Trong trí nhớ còn sót, trường là hai dãy nhà tôn thấp gồm phoìng học và dãy song song là phòng ngủ và sinh hoạt khác.

 

Trường Biên hòa chỉ có đến lớp ba là hết, nên cậu em này chỉ học có một năm lại về Mỹ Tho. Trường không lớn lắm và tiện nghi cũng không bằng trường QGNT ở Saigon.

 

Do học sinh cấp một còn nhỏ tuổi nên rất ít Mẹ nào cho con đi xa.

Hy vọng ACE nào có biết thêm để làm Kỷ Yếu 50 Năm đầy đủ, để biết rằng chính phủ rất quan tâm chăm sóc cho những người con có hoàn cảnh mồ côi như chúng ta.

Đỗ Hoa 73

 

 

TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ CẦN THƠ : 1973- 1975

 


Khai giảng niên khóa đầu tiên 1973 – 1974 . với 4 lớp : 6 . 7 . 8 . 9 .
Trường vẫn c̣n đang xây dựng dỡ dang tại dc 19 Lộ 20 tỉnh Cần thơ Nay là số 19 đường CMT8 ,F An thới , quận B́nh thủy – thành phố Cần thơ .


Đại diện Viện GDQNGT - Quân khu 4 : Dại úy Nguyễn Thị Hiếu
Hiệu trưởng : Lê Phú Đức – Sĩ quan biệt phái
Hiệu đoàn trưởng kiêm Giám thị : Lê Quang Mỹ Ngọc –cựu HS BDD niên khóa 70 – 71 QGNT – SG
Thư kư : Nguyễn thị Vân : Quả phụ tử sĩ
Giáo sư từ trường Văn Hóa Quân đội được điều sang dạy 4 lop : 6.7. 8 ,9 .


Đầu năm 1975 , trường vừa xây dựng hoàn thành tổng thể gôm 3 dảy lầu với các pḥng học . khu nội trú , khu văn pḥng . Sân vận động sinh hoạt thể thao .Chỉ mới hoạt động năm học đầu tiên nhưng Lê Quang Mỹ Ngọc cũng đă thành lập được một đội văn nghệ , một dội cầu lông , một đội bóng bàn non . trẻ , cho sinh hoạt hiệu doàn trường QGNT Cần thơ .

 

Buổi đầu số học sinh c̣n quá ít nên Nam nữ chung lớp .Lớp 6 đông nhất khoảng 20 em , lớp 9 chỉ có khoảng 10 em v..v..Tổng số học sinh của 4 cấp lớp học 6,7,8,9 khoảng 70 em.


Dự định niên khóa 1974- 1975 sẽ nâng lên trường cấp 3.


Sau tháng 4/1975 - Trường Q GNT Cần thơ đă đổi tên thành trường Lư Tự Trọng khu Tây Nam bộ.


Hiện nay là trường Trung học phổ thông chuyên Lư Tự Trọng, thành phố Cần thơ .
01/2013.
A 2 -74.

 

 

 

 

 

 

Các Ban Đại diện Học Sinh

Trung học QGNT Sàigon.

 

Ban Đại Diện Niên Khóa 1968-1969
Đại Diện Nam :

Nguyễn văn Khanh 1A
Phó: Mai An Toàn 2B2


Đại Diện Nữ:

Nguyễn Thị Chai 1A
Phó: Chung Yến Nhi 1A


Ban Trật Tự Khánh Tiết:

Nguyễn Văn Nghiệp 2B2
Nguyễn Thị Nhuận 1A


Ban Học Tập Báo Chí :

Phan Nhật Tân 2A2
Nguyễn Thị Ngự 1A


Ban Xă Hội:

Phạm Văn Bộ 1B
Trần Ngọc Minh Châu 2B2


Ban Văn Nghệ:

Mai Đức Phú 1A
 

Ban Thể Thao:

Tăng A Nh́ 2B2
Phạm thị Lư 1A

 

 



Niên Khóa 1969-1970:
Phạm ngọc Trường Q71 -  Nguyễn thị Lan Q70

Trần đức Nghiă Q71 -  Vơ thị Trinh Q70

Trần Ngọc Lâm Q70 - Lê thị bạchTuyết Q70

Thái văn Hoàng Q70 - Nguyễn thị Thuật Q71

Đinh văn Thám Q71 - Kiều thị Sơn Q71

Nguyễn văn Nghi Q71 - Nguyễn ( hay Trần ) thị ngọc Châu Q72

Nguyễn văn Tuynh Q71 - Ngô ngọc Dung Q71

Nguyễn anh Dũng Q71 - Nguyễn thị Lệ Q71

.....................Phương Q71

*** c̣n thiếu khoảng 3 người v́ Ban Đại diện gồm có Ban Văn nghệ , Học tập , Xă hội , Sinh hoạt học đường . Mỗi ban gồm 2 nam và 2 nữ

 

 

 

 

 

Niên Khóa 1970-1971:

Đại diện Nam Sinh:

Dam van Tuan 12B1

Nguyen Thang Long 12B1

 

Đại diện Nữ Sinh:

Le Quang My Ngoc 11B2

Le Thi Thuy Tien 11A2

 

Tong Thu Ky :

Tran Duc Nghia 12A2

Nguyen Ngoc Yen 12A1

 

Khoi Hoc Tap :

Phan Si Tuan 12B1

Nguyen Minh Phuong 12A1

 

Khoi Trat Tu :

Nguyen Trung Thuoc 12B1

Dao thi Luong 11A2

 

Khoi The Thao :

Bui Thai Lan 12B1

Nguyen Thi Huyen Nga 10 A3

 

Khoi Xa Hoi :

Bui Manh Hoanh 12B1

Kieu Thi Son 12A1

 

Khoi Van Nghe :

Do Manh Chu 12B2

Nguyen Thi Thuan Chau 10A3

Ngo ngoc Dung 12A1

 

Khoi Bao chi :

Hoang Van Son 12B1

Nguyen Thi Le 12B2

 

Khoi Sinh Hoat thanh nien :

Nguyen van Tuynh

Pham trung Thanh

 


 

 

 

Niên Khóa 1971-1972:

Đại diện Nam sinh :

Phạm Văn Đức, Q73 -

Trần Dũng Tiến, Q73.

Đại Diện Nữ sinh :

Đào Thị Lương, Q72 -

Ngô Ngọc Bằng, Q72
 
Tổng Thư Kư:

Nguyễn Hoàng, Q73

Ban Văn Nghệ : 

Trần Quảng Nam, Q73 -  

Ng~ Thị Thuận Châu, Q73

 

Ban Báo Chí :

Nguyễn Quang Nghinh, Q73 -  

Ng~ Thị Ngọc Dung, Q73

 

Ban Thể Thao :

Mai Cao Tăng Q73 -

Ng~ Thị Kim Khánh, Q73 
 
Ban Trật Tự :

Phạm Văn Việt, Q72 -

Dương thị Quư, Q72

 

Ban Xă Hội : 

Bùi Thanh Vũ, Q73 -

Phạm Thị Oanh, Q72

 

Ban Học Tập :

Phạm Trung Thành, Q73 -

Ng~ Thị Kim Phượng, Q73


Ban Sinh hoạt học đường :

Phạm Văn Đệ Q72

 

 

 

Niên Khóa 1972-1973:

Đại diện nam sinh:

Chủ Tịch: Nguyễn Trung Vinh

Phó Chủ  tịch: Nguyễn Tri Phương

Tổng Thư ký: Đỗ Ngọc Vinh

TKTrTu: Mai Cao Tăng

TKVN: Vơ Thanh Long

TKBC: Nguyễn Mạnh

TKTT: Nguyễn Đức Dũng

TTHT: Phan Khắc Thành

TKXH: Hoàng B́nh Hải


Đại diện Nữ Sinh:

Chủ tịch: Nguyễn Thị Kim Thanh

Phó chủ tịch: Lương Thị Điều

Tổng Thơ Ký: Hoàng Thị Đông

TKTrTu: Nguyễn Thị Kim Xuân

TKVN: Nguyễn Thị Kim Cúc

TKBC: Nguyễn Thị Mai Liên

TKTT: Nguyễn Thị Kim Khánh

TKHT: Nguyễn Thị Mai Phương

TKXH: Nguyễn Thị Oanh

 

 

 

Niên Khóa 1973-1974:

Đại diện Nam Nữ Sinh:

Nguyễn tri Phương - Nguyễn Xuân Hùng

Đinh thị Hạnh - Nguyễn thị Ngọc Yến

 

Tổng - Phó Tổng Thư Ký và Thủ Quỹ

Đoàn Ngọc Long - Mai thị Bích Thủy

 

Khối Trật Tự - Khánh Tiết

Hà Hồng Hải - Trần thị Kim

 

Khối Thể Thao

Nguyễn Xuân Hùng - Nguyễn thị Thanh Hà

 

Khối Xã Hội
Lê Trọng Điểm - Phạm Kim Hoàng

 

Khối Học Tập và Du Khảo

Phạm Ngọc Hưởng - Nguyễn thị Hạnh

 

Khối Văn Nghệ

Đặng Phi Long - Nguyễn thị Vinh

 

Khối Báo Chí

Hoàng văn Nam - Nguyễn thị Anh Anh

 

Khối Sinh Hoạt Thanh Niên

Nguyễn Mạnh Hùng - Đào thị Dỹ

 

 

 

 

 

Niên Khóa 1974-1975:

Đại Diện Trưởng nam sinh: : TRẦN ĐỨC HIỆP

Đại Diện Trưởng nữ sinh : ĐINH THỊ THI

Đại Diện Phó Nam sinh : LÊ TRỌNG ĐIỂM

Đại Diện Phó Nữ sinh : NGUYỄN THỊ KIM THANH

Tổng thư kư : NGUYỄN TRUNG QUANG - BÙI TUYẾT MAI

Trưởng khối Báo chí: : LÊ XUÂN SƠN - NGUYỄN THỊ HẠNH

Trưởng khối TT : ĐINH VĂN DŨNG - NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẬU

Trưởng khối Xă hội: NGUYỄN VĂN HẢI - LÊ THỊ KIM LIÊN

Trưởng khối Trật tự & Khánh tiết: VŨ VĂN VƯƠNG - BÙI THỊ GIÁO

Trưởng khối sinh hoạt: PHẠM VĂN THIỆN - VŨ THỊ KIM THANH

Trưởng khối Học tập & Du khảo: NGUYỄN THÀNH CÔNG - NGUYỄN THỊ MAI TRÂM

Trưởng khối Văn nghệ: NGUYỄN VĂN MINH - ĐẶNG THỊ BÍCH NGỌC


 

 


 

 

Các Ban Đại diện Học Sinh

Trung học Kỹ Thuật QGNT Sàigon.

 

Niên Khoá 1971-1972

-Truởng Ban Đại Diện : Hoàng Phan Cư
-Phó Truởng Ban : Đào Gia Ất
-Tổng Thư Kư : Lê Viết Yên
-Thủ Quỹ: Trần Thị Kim

Các Truởng Phó Tiểu Ban:
Ban Thanh Niên :
Nguyễn Duy Cao- Đinh Hữu Vị
Ban xă Hội :
Trần Thị Ánh Hoa - Phan Quư Toàn
Ban Học Tập Kỷ Luật:

Huỳnh Khuơng Trung - Nguyễn Trọng Tuyên
Ban Ngoại Giao liên Lạc :
Bùi Văn Chu - Lê Anh Quân
Ban Khánh Tiết Trật Tự :
Hoàng văn Thuy - Lê Thị Hoàng

 

Niên Khóa 1972-1973

Tổng Thư ký: Dương Văn Hữu

Phó Tổng Thư Ký: Đỗ Khắc Hùng

Ban Văn Nghệ-Báo chí: Lê Anh Quân-Phạm Quốc Gia

Ban Thể Thao-Trật Tự: Vũ Công Thanh-Tạ Trung Đức

Ban Xã Hội-Khánh Tiết: Lưu Mộng Hoàng-Lê Minh Rạng

 

 

 

 


Cô Công An cùng học sinh

 

Các Ban Đại diện Học Sinh

Trung học Tổng Hợp QGNT Sàigon.

 

Niên Khóa 1974-1975


Trưởng BĐD: Nguyễn Thành Lâm
Phó BĐD : Lưu Minh Trí
Thư kư kiêm thủ quỹ: Nguyễn thị Tuyết

TB Học Tập : Trần Thành Khoa
TB Báo Chí: Vơ thị Minh Phượng
TB Văn Nghệ: Nguyễn thị Kim Phụng
TB Thể Thao: Nguyễn Ngọc Phương
TB Xă Hội: Huỳnh Thanh Phong
 

 

................

 

MỘT VÀI KỶ NIỆM VỚI THẦY CÔ TẠI HOA KỲ.


...Khoảng năm 88-89 tại San Jose, trong một buổi tụ họp các anh chị em QGNT bắc Cali, có một thầy lại tham dự và cho biết tên là thầy Quí (???) và đang làm cho Sở Xă Hộị Kể từ đó đến nay, bặt tin tức của thầỵ

Khoảng năm 90 th́ tôi có đi ăn đám cưới cuả con gái cô Bảo Ngọc cũng tại San Jose, tại đám cưới này có cả chị Đinh Thị Hạnh QGNT 74 và một số các bạn từ Nam Cali lên.


Trước đó hay sau đó th́ có thầy Đắt dạy Pháp văn qua đời, anh chị em QGNT Bắc Cali đi đám tang thầy khá đông. Phần đông các thầy cô đi đám tang này là các thầy cô dạy môn Pháp Văn, có thầy Huỳnh Quang Ân từ bang Washington xuống.

Nói về thầy Ân th́ khi thầy mới qua Mỹ, nhân dịp gia đ́nh anh em tôi đi vacation qua Canada, khi đi ngang Seatle, Washington, có ghé nhà thầy chơị. Cô vợ cuả thầy có đăi ăn hột vịt lộn cùng cơm gia đ́nh thật ngon, c̣n nhớ cô cứ nh́n đưá cháu trai con cuả anh Phú và nói " Phải thầy Ân có đứa con trai như cháu đây th́ ông ấy chắc đội lên đầu quá ..."

C̣n nhớ rơ hôm đó là ngày Lễ Độc Lập, v́ buổi tối khi đi ngang khu Space Needle, từ freeway thấy pháo bông bắn rợp trời, soi sáng những building cao cuả thành phố Seatle...trông thật đẹp.

Thời gian 90-91 có nhiều gia đ́nh VN qua Mỹ theo diện HO, gia đ́nh thầy Phan Văn Cự cũng qua San Jose trong dịp nàỵ Kỳ Đại hội QGNT đầu tiên tại hải ngoại năm 1992, tôi có chở thầy Cự từ bắc xuống nam Cali tham dự . Tại đại hội dĩ nhiên có rất nhiều thầy cô, nhưng tôi nhớ nhất là thầy Nguyễn Khánh Do v́ có học thầy môn Toán năm lớp 12.

Được biết lúc đó thầy Do cư ngụ tại thành phố Houston bang Texas và thầy có viết văn làm báo và là chủ nhiệm tờ báo trào phúng Con Vịt. Sau này thầy có cả trang web Convit.com. Thầy Do là thầy đă tham dự tất cả các kỳ đại hội QGNT ở Cali và Texas.

Tại Đại hội 2007 ở Nam Cali tôi có nhắc lại với thầy là em vẫn nhớ trong Sổ Học Bạ năm lớp 12, không biết thầy có phê em " học được, có cố gắng " như các thày cô khác hay không, nhưng em nhớ nhất là thày phê em " đứng đắn " .

Ở Đại hội tôi cũng gặp thầy Nguyễn Lộc Thọ dạy Triết và Công dân, thầy Thọ vẫn dáng dấp có vẻ lè phè dễ dăị Tôi có đuà với thầy là hồi đi học nhớ thầy nhất là thầy hay mặc quần thấp.

Cho tới năm 2003 đại hội tại San Jose, tôi có dịp liên lạc với các thầy cô bằng diện thoại, emails , thơ bưu điện để kính mời quư thầy cô tham dự đại hội...th́ có thầy Trương Thế Khôi trả lời bằng email sớm nhất, bây giờ tôi vẫn c̣n giữ email này:


Khoi Truong <Khoi.Truong@ Halliburton. com> wrote:
Em Khanh,

Thay va Co dang chuan bi de tham du Dai Hoi voi cac em . Suc khoe thay tuong doi da kha quan nhieu .
Thay co se di cung voi phai doan cua cuu hs Son , Son da tiep xuc va noi chuyen voi em ? Hinh nhu Son
muon co ve may bay xong xuoi roi moi xin giu cho o khach san . Con ve Dai Hoi nhu the nao cho thay biet.
Em cho thay gap so dien thoai cua : thay Bui quoc Tuong , thay Le khac Chan va thay Tran dinh Thanh.
Thay doc website , thay tien trinh DH rat khich lẹ Nhiet tam cua ban to chuc khong che vao dau duoc.
Dia chi email nay cua thay la dia chi o trong so , se khong con dung nua trong 2 ngay toi vi thay ve huụ
Vay em goi ve cho thay tai dia chi email o nha : Khoi@wt.net
Cho thay goi loi hoi tham cac em.
Thay,
Truong the Khoị


Tôi nhớ thầy Khôi nhiều v́ có học môn Toán cuả thầy năm đệ tam và biết nhà thầy nằm trên đường Công Lư, gần Hiền Vương. Khu này có nhà cuả người bạn là Nguyễn Thiết Thạch trong hẽm 286 mà tôi hay đến chơi, mỗi lần đi ngang thường thấy thầy trong nhà.

Khoảng năm 2004 hay 2005 thật bàng hoàng hay tin thầy mất tại Houston. Thật là không công bằng khi thầy mới bắt đầu về hưu, chưa kịp hưởng nhàn sau bao năm làm việc vất vả.

Tại Đại hội 2003cô Nguyễn Thị Ngọc Nga, dạy môn Anh văn lớp đệ tam, cô Nga ở măi tận một thành phố gần Torronto, Canada, tôi có hưa với cô là sẽ ra phi trường đón cộ Buổi trưa thứ sáu hôm đó, sau khi đón các bạn khác và đi ăn trưa, tới giờ đi đón cô th́ xe bị bể bánh, may sao nhờ anh Huỳnh Khương Trung đi đón dùm. Năm đó cùng cô Nga có cô em cuả cô cũng từ Canada qua dự đại hội, cô em này cũng là cựu học sinh QGNT.

Cũng nhờ cô Nga c̣n giữ tấm hinh chụp chung lớp dệ tứ hay đệ tam mà cô làm Giáo Sư Hướng Dẫn, chúng tôi mới có được một tấm hinh chụp chung như vậỵ

Trước Đại hội, nhờ Kim Nga, em Kim Ngân, tôi liên lạc được với cô Phạm thị Thu Hoài, cô giáo dạy Toán năm đệ tứ, cô Hoài ở măi tận bang Floridạ Cô người Huế và có khuôn mặt hiền hậụ

Vui nhất khi gặp lại thầy Phạm Nghệ, dạy nhạc. Thầy đến San Jose sớm nhất từ tối thứ năm, tôi có ra phi trường đón thầỵ Vưà gặp mặt là thầy lôi ra ngoài hút thuốc, sau chuyến bay dài nhiều giờ từ East Coast không được hút. Năm đó 2003 thầy đă 75 nhưng giọng nói và tiếng cười nghe vẫn sang sảng và ḍn tan.

Có dịp đi ăn phở với thày và thày Cự, nghe hai thầy nói chuyện cười đuà vui vẻ lắm. Cứ nhớ những ǵ thầy nói đuà : " Ở đây (Mỹ) không nói được tiếng Anh là coi như câm, không biết lái xe là hai chân coi như què, không nghe hiểu được tiếng Anh là đôi tai coi như điếc ..." kinh qua những kinh nghiệm lúc mới tới Mỹ thầy đi xin việc đánh đàn violin cho một dàn nhạc hoà tấu lớn.

Năm 2006 th́ có cô Phùng thị Tần từ Torronto qua San Jose chơi, cô Tần là bạn thân của cô Bảo Ngọc và ca sỹ Nguyệt cuả Ban Tam Ca ???, cả ba người học chung từ hồi c̣n ở miền bắc trước năm 54.

Dịp này cô Bảo Ngọc có mời một số thầy cô và học sinh lại nhà con cuả cô ở Santa Clara để đón tiếp cô Tần. Hôm đó có rất đông thầy cô và học tṛ, có cả thầy Hoàng Xuân Thiệu từ Sacramento xuống.

Cách nay gần một năm, phu quân cuả cô Tần qua đời tại Torronto, Canada, tôi có nói chuyện với cô Bảo Ngọc về việc mua hoa phúng điếu cho cô Tần. Tôi có nhớ lời cô tâm sự khi sắp sửa cúp phone : " ...các thầy cô giờ đă yếu rồi, chẳng đi được đâu, chỉ c̣n biết ngồi nhà, lâu lâu gọi hay ngóng trông chiếc điện thoại, nói chuyện dăm ba câu với nhau cho đỡ buồn ......".

 

Mai Viết Khánh QGNT73
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thời gian trôi chày không ngừng. Không ai tắm hai lần trong cùng một ḍng sông (Heraclitus) Và vũ trụ cũng không thôi biến dịch. Ba mươi năm băi biển hoá nương dâu. Vướng mắc giữa hai ḍng chảy ấy, con người, sống, để trải nghiệm, để chứng tri, để tôn vinh và thương xót cho những đổi thay. Sự kiện, tự nó đă mang tính chất thời gian và không gian. Dưới con mắt nhân gian, sự kiện trở nên chuyện kể để lưu truyền. Gia đ́nh có phả hệ, quốc gia có lịch sử. Và những biên niên, tùy theo khuôn khổ của đoàn nhóm, theo tính chất của tập thể mang những tên gọi khác nhau.

Ở đây chúng ta nói về kỷ yếu. Như tập hợp những mốc dấu để con người có điểm quy hồi. Chúng ta không có duyên may gần gũi nhau dài lâu, nhưng có nhiều cơ hội để gặp gỡ và hồi niệm. Chúng ta riêng lẻ, đă có những tháng năm sống và chia sẻ theo đúng nghĩa đơn sơ nhất của ngôn từ. Chẳng cần phải kể lại những khó khăn, đau xót của cùng quẫn và chia ĺa, nhưng nơi những con người đă nếm, trải, chung, chia, đă nẩy sinh một mối dây liên kết tuy có mong manh song chẳng phải là không bền chắc. Những chuyến công tác, những kỳ trại hè, những lần dă ngoại gần xa, và cả những lần mang chuông đi đấm xứ người, anh chị em chúng ta đă chúng tỏ được t́nh yêu thương đùm bọc, và những cố gắng vươn lên đến những hạn cực cao vời.

Kỷ Yếu. Như một tấm gương để chúng ta soi t́m lại trong ḍng sông kỷ niệm, h́nh bóng của ḿnh trong chuỗi dài của đổi thay hai chiều thời không nghiệt ngă, mà chúng ta những người nằm trong giao điểm một cách t́nh cờ, đă tham dự hết ḷng với những khóc cười trôi nổi. Xin cảm ơn những ngẫu nhiên mà định mệnh đă dành cho ta một lối mở vào tương lai từ những ngặt nghèo trong quá khứ. Và cảm ơn sự bao dung của chuyện kể để chúng ta có một chỗ để quay về, với những thân t́nh, h́nh ảnh, và những ḍng chữ sẽ thấm vào hơi thở, như một sưởi ấm giữa khi lạnh lẽo của cuộc đời.

 

 

 

 

 

Mốc Thời Gian

1962: Bác sỹ Trương Khuê Quan vận động khởi công xây cất cơ sở.

1963: Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc ra đời. Khánh thành và khai giảng trường trung học Quốc Gia Nghĩa Tử Saì gòn.


1964: Một phần Khu Nội trú hoàn thành xây cất và bắt đầu thâu nhận nội trú sinh nữ.


1965: Hoàn thành xây cất văn phòng Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc.

1966: Hoàn thành xây cất và khai giảng trường trung học Kỹ Thuật Quốc Gia Nghĩa Tử.



1967: Bộ Cựu Chiến Binh được thành lập, Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc từ Bộ Quốc Phòng được chuyển qua Bộ Cựu Chiến Binh thành Viện Giáo Dục Quốc Gia Nghĩa Tử.


Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Huế khai giảng niên khóa đầu tiên.

1968: Trường Quốc Gia Nghĩa Tử Đà Nẵng khai giảng niên khóa đầu tiên.

1969: Trường Tiểu Học Quốc Gia Nghĩa Tử Biên Hoà khai giảng niên khóa đầu tiên và thâu nhận nội trú sinh.

1970: Khu Bệnh Xá được xây cất xong bên cạnh Khu Nội trú.
Khánh thành Thư Viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử Sài gòn.

1971: Trường trung học Quốc Gia Nghĩa Tử Cần Thơ khai giảng niên khóa đầu tiên.

1972: Trường trung học Tổng Hợp Quốc Gia Nghĩa Tử khai giảng niên khóa đầu tiên.

1973: Hoàn thành Khu Nội Trú nam sinh và bắt đầu thâu nhận nội trú sinh nam.

1975: Quốc Gia Nghĩa Tử bị xóa tên cùng tất cả các cơ sở trên toàn miền nam Việt nam.

 

 

 

DANH SÁCH CỰU GIÁO SƯ

CÁC TRƯỜNG QGNT SAIGON

 

HỌ   TÊN  MÔN DẠY CƯ NGỤ TRG
Nguyễn Thị  Ái  Vạn Vật VN  
Nguyễn Thị Công  An Kinh Tế GĐ-Nữ Công USA TH
Tran Thị Gia An Pháp Văn USA  
Huỳnh Văn Ân Pháp Văn USA  
LÊ Thị Ẩn  Lý Hóa USA  
Nguyễn thị Anh Anh Văn   TH
Nguyễn Ngọc Anh Kỹ Nghệ Gỗ-Sắt   KT
Hồng Quang  Anh Lý Hoá VN  
Văn Kim Anh Lý Hóa    
Trịnh Phan  Anh Vật Lư USA  
Lê Thái  Ất Công Dân Giáo Dục USA  
Lâm Hữu Bàng Pháp Văn-Việt Văn VN  
Nguyễn Huy  Bảo Sử Địa USA  
Lý Thành Báu Pháp Văn    
Nguyễn Văn Bảy Xưởng Mộc   KT
Lưu Công  Bình Anh Văn    
Phan Văn  Bình Pháp Văn USA  
Châu Văn Bông Thể Dục   KT PT
Trần Văn Bông   USA  
Nguyễn Mạnh Cầm Công Dân Giáo Dục    
Lê Thị Hoàng  Cầm Lý Hoá   TH
Lê Thị Hồng  Cẩm Anh Văn   TH
Lê Khắc  Chấn Toán USA  
Đỗ Thị Kim  Châu Anh Văn   KT
Phạm Đăng Châu Việt văn    
Đỗ Dương Chi Anh Văn USA  
Vũ Kim Chi Vạn Vật USA  
Phạm  Chí Kỹ Nghệ Họa   KT
Lâm Bá  Chí Sử Địa   TH
Triệu Thị  Chơi Kinh Tế GĐ VN TH
Phan Tấn Chữ Xưởng Điện Tử   KT
Lý Công Chuẩn Anh Văn VN  
Ngô Quang  Chương Anh Văn VN  
Trần Thị Chương Phòng Thí Nghiệm Anh  
Phan Văn Cự Lý Hóa USA  
Trần Thị Cu'c   USA  
Huỳnh Sơn Cương Tóan    KT
Võ Phú Cường Cơ Khí Ô Tô   KT
Đặng Mạnh Cường  Anh Văn   KT
Bùi  Dã Việt Văn VN KT PT
Nguyễn Thị Thọ  Đa Công Dân Giáo Dục USA  
Bùi Văn Đắc Hạnh Kiểm-Thể Dục   KT
Vũ Xuân Đào Anh Văn USA  
Nguyễn Xuân  Đạo Việt Văn VN  
Trần Văn Đắt Pháp Văn VN  
Nguyễn Tất Đạt Anh Văn VN  
Nguyễn Trọng Đạt Lý Hóa    
Phan Văn Đạt Việt Văn    
Trần Văn Đạt Pháp Văn VN  
Lê Thị Đẹp Mỹ Thuật Hoạ   KT
Vũ Viết Di  Anh Văn USA  
Nguyễn khuê Diễm Pháp Văn    
Nguyễn Thị Diễm   USA  
Trần Thị Ngọc Diệp Anh Văn    
Hồ Thị Ngọc Diệp Toán    
Nguyễn Duy Định Mỹ Thuật Hoạ   KT
Nguyễn Văn Định Toán-Lý Hóa   KT
Nguyễn Khánh Do Toán USA  
Nguyễn Văn Đời Thể Dục    PT KT
Đặng Trần    USA  
Nguyễn Trọng  Đức Việt Văn   TH
Hoàng Mai  Dung Anh Văn USA TH
Nguyễn Thị Xuân Dung Anh Văn   TH
Bùi Thu Dung Sử Địa VN  
Nguyen Thi Dung Sử Địa Canada  
Vơ Thị Ngọc  Dung Việt Văn -Sử Địa VN  
Nguyễn Kim Dũng Việt Văn    
Trần Quốc Giám Sử Địa USA  
Hà Canh Nông   TH
Lê Văn Hai Công Dân Giáo Dục    
Nguyễn thị  Hải Kinh Tế GĐ   TH
Trần Mộng  Hải Kinh Tế GĐ   TH
Huỳnh Thanh Hải Kỹ Nghệ Họa   KT
Nguyễn Thanh  Hải Kỹ Nghệ Họa   KT
Ngô Đức  Hải Sử Địa-Công Dân USA KT
Trân  Hải Toán    
Nguyễn Đình Hải Vạn Vật    
Trần Thạch Hậu Công Dân Giáo Dục    
Dương Công Hiến Pháp Văn   KT PT
Nguyễn thị  Hiếu Anh Văn-Toán-Công Dân VN TH PT
Trần Ngọc Hồ Công Dân Giáo Dục VN PT KT TH
Hà Lương Hoa Công Dân Giáo Dục    
Nguyễn Thị  Hoa Thể Dục   TH
Trần Mai  Hoa   VN  
Huỳnh Thị  Hoà Hội Họa    
Lê thị  Hoà Kinh Tế GĐ-Nữ Công Australia TH
Nguyễn thị Hoà Lý Hóa USA KT
Vũ Thị  Hoà Việt Văn    
Phạm Văn Hoà Xưởng Điện Nhà   KT
Đỗ Trọng  Hoà Xưởng Điện Tử Japan KT
Nguyễn Thị Xưng Hòa Lý Hóa USA KT
Nguyễn Thị Thu  Hoài Toán USA  
Nguyẽn Khoan Hồng Kỹ Nghệ Họa USA KT
Nguyễn Văn Hồng Lý Hóa   KT
Nguyễn Thị Xưng Huê Nữ Công Gia Chánh   KT
Đỗ Thị  Huệ Công Dân Giáo Dục VN  
Đỗ thị  Huệ Toán   TH
Nguyễn Thu Hương Lý Hóa    
Phan Thu Hương Sử Địa    
Huỳnh Ngọc  Hương Thể Dục    
Nguyễn thị  Hường Kinh Tế GĐ VN TH
Phan Thu Hường Thể Dục    
Lân Võ Huỳnh Pháp Văn    
Bửu Khải Anh-Pháp Văn Úc  
Lê Đức Khanh Anh Văn USA  
Nguyễn Phúc Khánh Toán    
Bùi Văn Khánh Anh Văn USA  
Võ Duy Khiết Công Dân Giáo Dục    
Huỳnh Thành  Khiết Hội Hoạ VN TH PT
Nguyễn Thanh  Khiết Toán USA  
Nguyễn Thế Khoa Sử Địa    
Võ Xuân Khoa Pháp Văn    
Trần Văn  Khoa Sử Địa    
Vũ Đình Khoái Anh Văn USA  
Trương Thế Khôi Toán USA  
Lê Văn Khởi Canh Nông   TH
Phạm Văn  Khừ Anh Văn    
Nguyễn  Khuê Việt Văn VN  
Phạm Đình Khuyến Toán VN  
Châu thị Minh Kim Sử Địa VN TH
Nguyễn Đức  Kim Toán    
Nguyễn Thị Mỹ  Lai Việt Văn    
Nguyễn Quý Lãm Âm Nhạc   TH
Trần Bích Lan Triết VN  
Nguyễn Phương Lan Vạn Vật USA  
Phạm Văn Lâu Hạnh Kiểm    
Đặng Văn  Lâu Sử Địa VN  
Lưu Thị  Lệ Anh Văn VN  
Pham Thanh Liêm Triết USA  
Lương Văn Liên Sử Địa    
Nguyễn thị Kim  Liên Việt Văn VN TH
Lê Thị Kim  Liên   VN  
Đỗ thị Lĩnh Sử Địa USA  
Trần Thị Kim Loan Lý Hóa USA  
Hoàng Thị  Lộc Sử Địa USA TH PT
Hoàng Đình Lộc Pháp Văn USA  
Nguyễn Phúc Lộc Triết    
Dương Xuân  Lợi Anh Văn VN  
Đặng Hữu Lợi Lý Hoá   TH
Phạm Như  Long Anh Văn VN  
Đặng Thị Thanh  Long Nữ Công VN TH KT
Nguyễn Thanh  Long Nữ Công    
Huỳnh Hữu Luận Việt Văn VN  
Trần Cao Luận Pháp Văn    
Ôn Tấn Lượng Công Kỹ Nghệ USA TH
Trần Khắc Lượng Lý Hóa France KT
Lê Đình Lý Vật Lý    
Trấn Phương Mai Việt Văn VN  
Đặng Mẫn Toán   TH
Phan  Mật Vạn Vật-Toán    PT KT
Lương Kiều Miên Âm Nhạc    
Hồ văn Miêng Điện KT-Cơ Khí VN KT
Trần Bửu Minh Toán USA  
Hoàng Thị Minh Việt Văn    
Thầy Mạnh Anh Văn   TH KT
Nguyễn Cao  Mỹ Kỹ NghệHọa USA KT
Nguyễn Hoài Nam Canh Nông   TH
Nguyễn Thanh  Nam Toán    
Nguyễn Thị Ngọc Nga Anh Văn Canada PT TH
Nguyen Thi Xuân Nga Việt Văn USA  
Trịnh Công  Ngàn Toán    
Phạm  Nghệ Âm Nhạc USA TH PT
Quỳnh Văn Nghĩa Sử Địa    
Phạm Quan Nghĩa Việt Văn    
Phạm Thị Bảo Ngọc Pháp Văn USA  
Vũ Trọng Ngọc      
Nguyễn Thành Ngôn Công Dân Giáo Dục    
Vơ Hoài  Nguyên Toán VN  
Nguyễn Văn Nhạc Hiệu Đoàn    
Huỳnh Thị  Nhạn Sử Địa    
Nguyễn Văn Nhu Công Dân Giáo Dục    
Nguyễn Thị Nhung Công Dân Giáo Dục    
Hồ Thị Ngọc Nữ Việt Văn USA  
Cao Kim  Nương Âm Nhạc VN TH
Trần thị Kim Oanh Anh Văn-Công Dân USA  
Bùi Thị Oanh Lý Hóa USA  
Nguyễn văn  Paul Phòng Thính Thị   TH
Vương Thành Phát Kỹ Nghệ Sắt   KT
Nguyễn Hữu Phi Kỹ Thuật Điện   KT
Nguyễn Đôn Phong Sử Địa Canada  
Phạm Trọng Phu Anh Văn-Sử Địa USA KT
Nguyễn Xuân Phúc Âm Nhạc    
Đỗ thị Phụng Anh văn USA KT
Phạm Minh Phương Việt Văn    
Nguyễn Minh Phương Việt Văn-Lý Hóa    
Nguyễn Huy  Quang Công Dân Giáo Dục    
Trần Thị Mạnh  Quang Công Dân Giáo Dục  USA  
Lê Văn Quang Ky Nghệ Họa VN KT
Nguyễn Thành Quang Pháp Văn    
Trần Đăng Quang Toán Canada TH PT
Nguyễn Huy Quang Việt Văn    
Nguyễn Đức  Quảng Sử Địa France TH
Phan Quệ Hội Họa USA  
Phạm Minh Quí Triết USA  
Đặng Vũ T  Quy Vạn vật    
Nguyễn Bạch Quỳ Lý Hoá   TH
Tôn Thất  Quỳnh Canh Nông   TH
Huỳnh Ngọc  Sang Anh Văn    
Sâm Việt Văn   TH
Tô Văn Sẻ Triết    
Nguyễn  Sơn Toán VN  
Ngô Thị Băng  Sơn Vạn Vật VN  
Võ Kim Sơn Vạn Vật USA  
Nguyễn Thiện Sự Toán   KT
Công Tằng TN Thu Sương   USA  
Đặng Trần Sỹ Toán   KT
Phan Thanh  Tâm Công Dân GD USA  
Huỳnh Minh  Tâm Công Kỹ Nghệ VN KT TH
Hoàng Thị  Tâm Lý Hóa   KT
Huỳnh Hữu  Tâm Giám Học   KT
Lê Minh  Tâm   VN  
Diệp Vĩnh Tấn Pháp Văn VN  
Lê Quan  Tấn Pháp Văn VN  
Lê Quốc  Tấn Vạn vật USA  
Phùng Thị Tần Pháp Văn Canada  
Đặng Thị Thái Anh Văn    
Vũ Công Thân   USA  
Hoàng Thị Đan Thanh Sử Địa-Vạn Vật-CD    
Trần Đình Thành Anh Văn USA  
Hồ Văn Thành Xưởng Điện Nhà   KT
Hoàng Đình Thành   USA  
Tống Phước  Thạnh Toán    
Trịnh Thị  Thảo Vạn vật    
Phạm Thị Tích Thiện Công Dân Giáo Dục    
Hoàng Xuân Thiệu Sử Địa USA  
Đặng Hưng  Thịnh Anh Văn USA  
Lưu Thị  Thơ Việt Văn VN  
Nguyễn Thế  Thọ Kỹ Nghệ Mộc VN KT
Nguyễn Phúc  Thọ Toán   KT
Nguyễn Trọng Thọ Toán   KT
Nguyễn Lộc  Thọ Triết-Công Dân USA KT PT
Nguyễn Văn Thơm Vạn Vật USA  
Trịnh Văn Thông Cơ Khí Ô Tô   KT
Nguyễn Chí Thông Toán   KT
Phan Hữu  Thông Việt Văn VN TH
Nguyễn Thị Ánh Thu Toán-Vạn Vật    
Nguyễn Văn Thu Việt Văn Canada  
Nguyễn thị  Thuật Công Dân Giáo Dục VN TH
Nguyễn Thị Thục Công Dân Giáo Dục    
Pham Thi Thục Vạn Vật-Lý Hóa France  
Nguyễn Văn Thưởng Toán   KT
Phạm Thị Ngọc Thúy Lý Hóa    
Lại Thị  Thủy Lư Hóa    
Nguyễn Thanh  Thủy Lư Hóa    
Lâm Thị Bích  Thủy Việt Văn-Anh Văn VN  
Cao Thị Thủy  Tiên Sử Địa VN  
Phan Huy Toán VN  
Trần Thành Tôn Toán   KT
Phan Trương Trắc Vạn vật VN  
Hồ Công  Trí Anh Văn VN  
Trần Đình  Trị Anh Văn USA  
Nguyễn Khắc  Trung Lư Hóa    
Nguyễn Trương Anh Văn    
Lữ Anh Tú Lý Hóa  Sweden  
Huỳnh Văn Trường Toán  Canada  
Trần Thị Ngọc  Tú Anh Văn   TH
Bùi Quốc Tường Toán USA  
Phan Trương  Tuy Toán VN  
Phan thị Lâm  Tuyền Vạn Vật USA TH
Trầm Ngọc Tuyết Nữ Công Gia Chánh   KT
Trương Thị Đạm Tuyết   USA  
Nguyễn Hàn  Tý Kỹ Nghệ Họa USA KT
Đỗ Đại Thanh Vân Kỹ Nghệ Họa VN KT
Đặng Thị  Vân Pháp Văn    
Kỷ Thanh Vân Toán    
Nguyễn Thành  Vân Toán VN KT PT
Phan Thị Xuân Vân Việt Văn-Sử Địa    
Trần Xuân Văn Sử Địa    
Trần Thị Thu Vân Âm Nhạc USA  
Ninh Thế Việt Pháp Văn   KT
Hoàng  Vinh Lý Hóa-Việt Văn   TH PT
Vũ Thị  Vinh Toán    
Vũ Ngọc Vĩnh Lý Hoá USA  
Đào Văn Vượng Lý Hoá USA  
Nguyễn Văn Vỹ Việt Văn VN  
Đoàn  Xâng Toán   TH
Nguyễn Hồng  Xí Sử Địa VN  
Nguyễn Văn Xiêm Anh Văn USA  
Nguyễn Kim  Xuyến Vạn vật USA  
Nguyễn Ngọc  Yến Hội Họa-Nữ Công   USA  
Nguyễn thị  Yến Kinh Tế GĐ   TH

 

Ghi chú: Cột "Cư Ngụ" nếu để trống có nghĩa là chưa liên lạc được.

Cột "TRƯỜNG" nếu để trống là trường Phổ Thông (PT); TH là Tổng Hợp, KT là Kỹ Thuật.

 

 

 

Các Thành Tích Biểu của học sinh mang chữ ký của Thầy Cô cách nay hơn 40 năm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

DANH SÁCH NHÂN VIÊN GIÁM THỊ

CÁC TRƯỜNG QGNT SAIGON

 

 
Họ Tên Chức Vụ Nơi Làm
  Ái Giám Thị PT
Bui thi  Anh Hành Chánh PT
Nguyễn Thị Anh Giám Thị Noi Tru
Đỗ Quang  Anh Giám Thị PT
Lê Thị  Ánh Giám Thị Nội Trú
Nguyễn Thu Ba Giám Thị Nội Trú
Phạm Văn Bính Giám Thị PT
Nguyễn Văn Chương Giám Thị Nội Trú
Nguyễn Thị Cúc Giám Thị Nội Trú
Thầy Cường Giám Thị TH
Bùi Văn Đắc Tổng Giám Thị KT
Phạm Văn  Đệ Giám Thị Nội Trú
Kỳ Mậu Dung Giám Thị Nội Trú
Nguyễn Khắc Dũng Giám Thị Nội Trú
Vũ Ngọc Hân Giám Thị PT
Bùi Vinh  Hạnh Giám Thị PT
Phù Liên Hoa Giám Thị Nội Trú
Huỳnh Hoa Giám Thị Nội Trú
Nguyễn Thị Tuyết Hoa Giám Thị Nội Trú
Vũ Văn Hồng Giám Thị PT
Nguyen thi  Huệ Giám Thị Noi Tru
Trương Hương Giám Thị PT
Nguyễn Văn Kình Tổng Giám Thị PT
Kính Giám Thị KT
Huỳnh Văn  Lâu Tổng Giám Thị KT
Tran Thi Kim  Liẻm Giám Thị KT
Nguyen Duy Liẻm Giám Thị KT
Hoàng Xuân Liên Giám Thị PT
Hoàng Thị  Lộc Tổng Giám Thị TH
Nguyễn  Luật Giám Thị Nội Trú
Cô  Mai Giám Thị Nội Trú
Vũ Thị Mão Giám Thị PT - NT
Phạm Hữu Mậu Giám Thị Nội Trú
Nguyễn văn Minh Giám Thị KT
Ngụy Muội Giám Thị TH
Nguyễn Mười Giám Thị PT
Trần Văn Mười Tổng Giám Thị PT
Nguyễn Thị Na Giám Thị Nội Trú
Bùi Văn Nghĩa Giám Thị PT
Ngô thi  Nguyệt Giám Thị PT
Nguyễn Thị Minh Nguyệt Giám Thị Nội Trú
Nguyễn Quang Nhật Giám Thị Nội Trú
Hoàng Văn Nhu Giám Thị PT
Lê Thị  Niệm Giám Thị Nội Trú
Trần Văn Phiên Giám Thị Thư Viện
Nguyễn Thị Phú Giám Thị PT
Mạc Thị Phùng Giám Thị Nội Trú
Phụng Giám Thị Noi Tru
Đỗ Thị Phương Giám Thị PT
Cô  Quế Giám Thị Nội Trú
Đặng Thị Sa Giám Thị Nội Trú
Nguyễn  Sơn Tổng Giám Thị PT
Đỗ Thị  Sỹ Giám Thị Nội Trú
Phạm Văn Thân Giám Thị PT
Đào Thị Thân Giám Thị PT
Nguyễn Văn Thăng Giám Thị PT
Nguyễn Thị  Thanh Giám Thị PT
Vũ Thị Thạo Giám Thị Nội Trú
Vũ Đức Thiêm Giám Thị PT
Trần Văn Thiên Giám Thi PT
Mai Trường Thọ Giám Thị PT
Nguyễn Thống Giám Thị An Ninh
Vũ Thị  Toan Giám Thị Nội Trú
Trần Thị Kim Trí Giám Thị PT
Ngô Đức Tựu Giám Thị TH
Nguyễn Văn Tuynh Giám Thị Nội Trú
Trần Văn Úc Giám Thi PT
Lê Văn Út Tổng Giám Thị KT
Nguyễn Thị Thu Vân Giám Thị Nội Trú
Hứa Thị Vinh Giám Thị PT
Nguyễn Thị  Vinh Giám Thị PT
Trần Thị Vinh Giám Thị Nội Trú
Nguyễn Văn Vỹ Khu Trưởng Noi Tru
Vũ Văn Vỹ Giám Thị PT
Xá Giám Thị Nội Trú

 

 

 

 

 

DANH SÁCH CỰU GIÁO SƯ

và BAN GIÁM HIỆU TRƯỜNG QGNT HUẾ

 
 
Họ Tên Môn
Phan Văn  Cự Hiệu Trưởng
Bửu  Đôn Hiệu Trưởng
Nguyễn Hứa  Hàm Thể Dục
Nguyễn Thi Lệ  Hằng Thể Dục
Đinh Tấn Hùng Toán-Lý Hóa
Nguyễn Văn  Huyền Tổng Giám Thị
Truơng Thị  Lai Việt Văn
Phan Thi Nhật Lệ  
Nguyễn  Giám Thị-Nội Trú
Tạ Ngọc Minh Anh Văn
Cô  Nghệ Sử Địa
Phạm Mạc Trường Ly  Phương Nhạc
Hoàng Mạnh  Quân Sử Địa
Thầy  Quân Công Dân
Thầy  Quế Toán-Lý Hóa
Phan Thi Thanh Tâm  Công Dân
Bác  Tháo Giám Thị
Bà  Thệ Nhân Viên
Nguyễn  Thu Giám Thị
Nguyễn Thắng Thưởng Hội Họa
Hoàng Hữu  Tiếu Hiệu Trưởng
Đăng Công Toại Việt Văn
Huỳnh Thị  Trung Vạn Vật
Nguyễn Khoa Diệu Tùy Anh-Pháp Văn
Lâm Quốc  Tuyên Việt Văn
Truơng Thi Đạm Tuyết  
Phan Thị Thu Vân Việt Văn

 

 

DANH SÁCH CỰU GIÁO SƯ và

BAN GIÁM HIỆU TRƯỜNG QGNT ĐÀ NẴNG

 

Họ Tên Môn Cư Ngụ
Nguyễn Thiúy Ái Vạn Vật USA
Lê Thị Thanh An Sử Địa VN
Thu An    
Phan Đình Ánh Anh Văn VN
Trịnh Thị Ngọc Bích Toán-Việt Văn VN
Lê Thị  Cẩm Anh Văn VN
Huỳnh Sơn Cương Toán-Công Dân VN
Đặng Văn Cường Công Dân VN
Nguyễn Nhung Đích Anh Văn  
Vĩnh Diện Âm Nhạc USA
Ngọc Dung Anh Văn  
Trần Thị Kim Dung Lý Hóa VN
Trịnh  Đương Toán VN
Nguyễn Giang Giám Thị VN
Nguyễn Thị Hạnh Sử Địa - Nữ Công VN
Lâm Thúy Hậu Anh Văn - Việt Văn VN
Trần Thị Mai  Hoa Lý Hóa - HĐP VN
Nguyễn  Hoa Hiệu Trưởng 68-70 VN
Tạ Đạo  Huệ Anh Văn  
Nguyễn Thị Như Huệ Lý Hóa  
Trần Như Hùng Toán - HĐT73-74 VN
Hạ Quốc Huy Hội Họa USA
Trần Văn Huy Giám Thị VN
Trần Thị Phương Khuê Việt-Toán-Vạn Vật VN
Tôn Thất Dương Kỳ Pháp Văn-HĐT71-75 VN
Bùi Thị Phương Lan Toán - Sử Địa VN
Đặng  Lỡ Giám Thị - An ninh  
Nguyễn Thị Tề My Lý Hóa  
Nguyễn Văn Ngọc Việt-Anh Văn USA
Bích Ngọc Toán  
Nguyễn Thị Nhi Thể Dục USA
Nguyễn Văn Nở Giám Thị - An Ninh  
Hoàng Trọng Nồng Anh Văn HĐT-TGT VN
Thầy Quế Toán  
Phan Thị Quy Hội Họa-Nữ Công VN
Lê Thị Minh Tâm Việt Văn VN
Trần Thị Liên Tâm Sử Địa VN
Phạm Sỹ Tấn Toán - GH71-75  
Nguyễn Thị Thuận Âm Nhạc  
Phan Đình Thưởng Thể Dục VN
Nguyễn Văn Tích Vạn Vật VN
Thầy Tiễn Lý Hóa VN
Nguyễn Ích Xuân Hiệu Trưởng 67-68  
Lê Ngọc Xuất Thư Ký Văn Phòng  
Hoàng Thị Yến Hội Họa VN

 

 

 

Thăm Thầy Hoàng Xuân Thiệu

 Viện Giáo Dục QGNT : Những Bước Đầu Thành Lập

 

Cuối tuần qua 31 tháng 7 - 2010 chúng tôi có dịp lên thành phố El Grove nằm về phía nam của thành phố Sacramento, California viếng thăm thày Hoàng Xuân Thiệu, cựu hiệu trưởng trường trung học QGNT và sau đó là Thanh tra cuả Viện Giáo dục QGNT.

Sau những lời hỏi thăm sức khoẻ cuả thày, chúng tôi có xin phỏng vấn thầy về thời gian thầy phục vụ tại Viện QGNT. Sau dây là những ư chính do thầy cho biết.

Toàn bộ cuộc phỏng vấn sẽ dược ghi chép lại đầy đủ và cho vào cuốn Kỷ Yếu 50 Năm QGNT sẽ được phát hành vào dịp Lễ Kỷ Niệm 50 Năm QGNT tại San Jose Bắc California vào ngày 6 tháng  năm 2013.

1. Ư tưởng về QGNT có được do bác sỹ Trương Khuê Quan sau khi qua Hoà Lan tham dự một hội nghị về vấn đề giúp đỡ các con em cuả các chiến sỹ đă hy sinh trong các cuộc chiến tranh thế giớị Năm này là năm 1957 và lúc đó bác sỹ Quan là Cục Trưởng Cục Xă Hộị

2. Với ư tưởng này, khi về nước, bác sỹ Quan đă vận động các bạn bè , ân nhân (thày Thiệu gọi là " Nhóm Nhân Sỹ Saigon " đóng góp mỗi người 200 ngàn đồng để xây dựng trường QGNT, kiến trúc sư vẽ đồ án không tính tiền, và các nhà thầu xây cất không tính tiền công.

Về khu đất, trước đó dự định xây tiếp nghiă địa Tây, nhưng sau năm 54 th́ nhu cầu cho nghiă điạ không c̣n, và khu đất được "tă,ng" cho QGNT.

3. Sau khi ngôi trường được xây dựng xong, nhóm nhân sỹ này tặng cho Bộ Quốc Pḥng. (1962-1963)

4. Bộ Quốc pḥng thành lập Quốc Gia Nghĩa Tử Cuộc và bổ nhiệm bác sỹ Quan từ Cục trưởng Cục Xă Hội về làm Cuộc Trưởng QGNT Cuộc và chính thức khánh thành trường trung học QGNT Saig̣n (1963)

5. Tới năm 1967, Bộ Cựu Chiến Binh được thành lập và QGNT Cuộc được bàn giao từ Bộ Quốc Phon`g qua Bộ Cựu Chiến Binh.

Bộ Cựu Chiến Binh đổi lại thành Viện Giáo Dục QGNT, là một trong nhiều Viện trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh. (thí dụ Viện Quốc Gia Phục Hồi .v.v..)

6. Tổng số học sinh cho mỗi niên khóa là khoảng 3500 học sinh, chia ra 65 lớp, 60 lớp ở hai building chính, và 5 lớp tại khuôn viên khu nội trú..

C̣n rất nhiều các chi tiết cũng như những kỷ niệm đáng nhớ cuả thầy và ngôi trường QGNT. Nguyên văn buổi nói chuyện này sẽ được đăng vào Tập Kỷ Yếu dự định  sẽ phát hành vào dịp Lễ Kỷ Niệm 50 Năm QGNT được thành lập, July 6 2013 tai thanh phô San Jose, băc California.

 

Nói về thầy Phạm Nghệ và thầy Huỳnh Thành Khiết: (Trích trong bài phỏng vấn thầy Hoàng Xuân Thiệu)

Thầy kể thêm về chuyện của thầy Phạm Nghệ dạy nhạc và thầy Khiết dạy vẽ cho nghe v́ đây là hai người thầy cưng nhất trong thời gian làm việc ở trường.


Mỗi lần có dịp đi Vũng Tàu hay Nha Trang mỗi lớp chỉ được chọn vài em nhưng thầy Nghệ th́ lúc nào cũng ghi danh Phạm Nghệ và ban hợp xướng .Thầy ấy bảo với thầy rằng “Anh mà không cho nó đi th́ lần sau nó không hát nữa.” Những lần tập hát mà có học tṛ phá phách nhiều, thầy Nghệ lại bảo thầy “Lâu lâu anh ghé qua một tí tụi nó sợ anh thành ra nó nghiêm túc tập hát. Chứ không tôi bảo chúng nó không chiụ hát”.

Về phần thầy Khiết cái đam mê của ông Khiết th́ rất khác. Những lần thăm viếng của tổng thống th́ thầy rất lo lắng về vấn đề trang hoàng. Thầy Khiết lại không, ông chẳng lo lắng ǵ. Khi thầy hỏi th́ ông bảo “Đó là chuyện của tôi anh đừng lo” Đến đêm trước ngày thăm viếng th́ thầy Khiết vẽ đến 2 giờ sáng. Thầy có hỏi tại sao th́ thầy Khiết trả lời “Vẽ như thế này th́ màu sắc của những cánh phượng mới tươi mới thắm”. Thầy muốn để dành những phông h́nh lại dùng cho lần tới th́ thầy Khiết bảo “Lần tới vẽ cái mới để dành làm ǵ. Không cần dùng những phông đă bạc màu”

Đây là những thầy mà thầy cưng như cưng trứng không có th́ khổ lắm. Sau 1975 Thầy có đi học tập chung với thầy Khiết khi được trả về ông đau yếu luôn và đă qua đời. Thầy Nghệ th́ vẫn gọi thăm hỏi với thầy thường xuyên.

Mai Đức Phú: Em c̣n nhớ lúc học với thầy Khiết Thầy dạy vẽ cho đệ ngũ trở lên, Thầy cầm phấn tay trái và vẽ từ phải qua trái Thầy viết hay ǵ cũng dùng tay trái và viết hay vẽ từ trái qua phải rất hay.

Thầy Hoàng Xuân Thiệu: Em c̣n nhớ chữ trong pḥng giáo sư không Thầy viết “Tất cả cho Quốc Gia Nghĩa Tử “ viết phông nổi trên một bản gỗ rất đẹp.

 

Chân Dung Thầy Huỳnh Thành Khiết - Giáo Sư Hội Họa

 

 

Năm mươi năm nh́n lại

Vài ḍng cho kỷ yếu kỷ niệm 50 năm

Thầy Vạn Vật Nguyễn Văn Thơm


1962-1963
Tốt nghiệp ĐHSP, tôi được bổ nhiệm về Nha Khảo Thí, sau đó là trường Hồ Ngọc Cẩn - Gia Định.

1963-1973
Tôi đến với trường QGNT, đến với các em học sinh gặp hoàn cảnh không may, cha các em là những chiến binh đă hy sinh cho tổ quốc. Mười năm ở ngôi trường mới tinh khôi, kiến trúc hài ḥa, mười năm lứa học tṛ hồn nhiên, dễ mến, đáng yêu, hiếu học mà tôi thường phê trong thành tích biểu là chăm, ngoan, giỏi, tôi có được biết bao là kỷ niệm đẹp. Ng̣ai công việc giảng dạy ở lớp, tôi cùng các em có chung những sinh hoạt khác như bán vé số cứu lụt miền trung, cắm trại ở Thủ Đức ,thăm thương bệnh binh ở Tổng Y Viện Cộng Ḥa, dự trại hè Vũng Tàu.v.v...

Để biết t́nh cảm thắm thiết giữa thầy cô và học tṛ QGNT như thế nào, xin hăy đọc bài của Cô Vơ Kim Sơn "Qua Cổng Trường Xưa"(đặc san 2005), của Cô Cao Thủy Tiên "Thư Gởi Học Sinh" (đặc san 2007), của Thầy Đặng Trần Dư "Nghĩa T́nh Thầy Tṛ" (đặc san 2007), của Tṛ Đặng Bích Ngọc " Viết Về Thầy Hùynh Văn Ân" (đặc san 2009).v.v...

1973-1975
Tôi được thuyên chuyển về Nha Tu Huấn Giáo Chức để huấn luyện các GS đệ nhất cấp và đi tu nghiệp ngắn hạn tại Mă Lai.

1975-1981
Đất bằng nổi sóng.
Do cần thầy, tôi được tạm dùng, dạy các "y sĩ" theo chương tŕnh Bổ túc Văn hóa.
C̣n đâu lứa học tṛ vui tươi, t́nh nghĩa, hiếu học ngày nào. Chỉ có không khí ảm đạm, nghi kỵ, vô cảm, vô t́nh, vô ơn. Mười năm hạnh phúc xưa kia, nay là sáu năm bất hạnh, hành nghề bất đắt dĩ.

Lứa học tṛ nầy căn bản không có ,thi học kỳ phải được hướng dẫn giải bài thi, thi tốt nghiệp giám thị được nhắc nhở làm ngơ với bùa phép, giám khảo được đề nghị "thông cảm".
Thế là các"y sĩ" lên Đại Học Y Khoa, tiếp tục một chương tŕnh nhẹ nhàng, mục đích là cấp tốc cho ra ḷ những" Bác sĩ Y khoa" để lănh đạo các bệnh viện.

1981-2000
Chán ngán với chương tŕnh BTVH phá sản, với cuộc sống khó khăn, tôi rút lui, tự cho phép ḿnh "mất dạy". Từ ấy, tôi sống tiềm sinh, làm … thinh, có lúc làm ... càn, nín thở qua sông.



2000-2013
Được bảo lănh qua Mỹ, tôi không ngờ lại được hội ngộ với những học tṛ QGNT. Thầy tṛ, tóc xanh ngày xưa bây giờ đă bạc màu.
Màu tóc phai theo thời gian nhưng t́nh nghĩa thầy tṛ thêm thắm thiết, trở thành những người bạn vong niên thân thiết.

Những mầm non ngày xưa nay đă nẩy mầm, phát triển, trưởng thành xuất sắc trong nhiều lảnh vực hơn thầy cô cũ rất xa. QGNT nổi tiếng với Nguyễn thị Bích Yến, với Lê Hồng Đa, với Trần Quảng Nam .v.v…
Dù thành công vượt bậc, các QGNT vẫn một ḷng tôn kính thầy cô, một nét đẹp truyền thống của văn hóa đông phương nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng.

Tuy nhiên ḷng tôi vẫn nghĩ sự cố gắng giảng dạy và t́nh thương đem lại cho các QGNT chỉ là bổn phận đối với thân phụ của các em mà thôi. Đó là những anh hùng đă hy sinh xương máu để tôi được yên lành ở hậu phương, để lại cho chúng tôi những người con ngoan, giỏi mà nay đă tự lực, trưởng thành.

Tôi cảm thấy ấm áp trong chiếc áo QGNT kỷ niệm 2003 dù nay đă sờn và phai màu. Tôi cảm thấy ấm ḷng khi nâng chiếc tách QGNT kỷ niệm 2005. Tôi cảm thấy hănh diện khi đeo huy hiệu có bốn chữ Quốc Gia Nghĩa Tử.

Các QGNT thân yêu! Các em xứng đáng là những Quốc Gia Nghĩa Tử Việt Nam, những đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam.

NVT

 

Mẹ tôi
(1935-1995)


Viết để tưởng nhớ đến Cô Nguyễn thị Hiếu, giáo sư trường Quốc Gia Nghĩa Tử, quả phụ cố Trung Tá Nguyễn Tấn Sĩ KD74/CT, Không Quân VNCH

 



Cô Hiếu và Cô Nga


"Nơi đất khách, mẹ nằm lạnh lẽo
Nén nhang trầm, muôn nẻo tỏa hương
Công ơn nuôi dưỡng ḷng vương
Đôi gịng lệ nhỏ xót thương mẹ hiền"


Một cơn gió lạnh thổi ngang làm tôi vội vă quấn kín lại khăn quàng cổ, co người trong chiếc áo khoác như để t́m thêm hơi ấm. Mới vừa có trận băo tuyết đêm qua nên sáng nay vạn vật được phủ 1 lớp tuyết trắng, màu trắng thật tinh khiết làm sao, tuyết phủ kín trên cây như những cánh hoa tuyết đong đưa theo gió, nh́n thật đẹp mắt! Hôm nay cả nhà rủ nhau đi thăm mộ mẹ. Loay hoay định t́m cách cắm hoa vào chậu cho mẹ nhưng tôi chợt nghĩ sao ḿnh không cắm thẳng xuống tuyết. Tối qua tuyết rơi nhiều, đủ dày để giữ những nhánh hồng đứng thẳng. Những cánh hồng đỏ thắm vươn lên từ thảm tuyết trắng mịn màng, nh́n như một vườn hồng xinh đẹp nho nhỏ bao chung quanh chỗ mẹ nằm, thật b́nh yên!

Mẹ tôi sinh tại làng Đ́nh Bảng, Bắc Ninh nhưng đến khoảng 7 tuổi là mẹ đă cùng ông bà ngoại vào Nam. Vào những năm trước 1954, sự đi lại từ Bắc vô Nam rất dễ dàng, không ai truy soát giấy tờ, chỉ cần mua vé là xong. Ḍng họ gia đ́nh ông bà ngoại đến Cần Thơ, xứ gạo trắng nước trong để lập nghiệp. Bà ngoại buôn bán rất giỏi nên chỉ vài năm sau ông bà ngoại đă có những cơ ngơi ổn định. Mẹ tôi là con gái duy nhất trong gia đ́nh 7 anh chị em. Ông ngoại tôi rất ham học nên những người con đều được ông lo cho ăn học tới nơi tới chốn, không hề trọng nam khinh nữ. Sau khi xong trung học ở Cần Thơ, mẹ tôi được lên Sàig̣n học tiếp chương tŕnh Pháp ở trường St. Paul, là trường của các nữ tu ḍng, nhờ thế mẹ tôi đậu tú tài Pháp không khó khăn và sau này mẹ tôi rất giỏi về sinh ngữ Anh Pháp.
Mẹ tôi gặp ba qua sự mai mối từ người bạn của ông ngoại. Ngày đầu tiên ba mẹ gặp nhau, mẹ chê ba, nói người ǵ mà đen đủi, ốm nhom, gầy như cây tăm! Ba tôi cao 1m81, bởi vậy sau này bạn bè đặt ba tên là "Sĩ C̣" v́ 2 cẳng dài lêu khêu như cẳng c̣. Những lần sau, ba tiếp tục đến thăm mẹ và dĩ nhiên là phải qua đợt phỏng vấn của ông ngoại. Ông ngoại đem thuốc lá và bia ra mời ba dùng nhưng ba từ chối v́ không biết hút thuốc lá uống bia, ông ngoại gật gù cho điểm cao... Sau này, khi thành vợ thành chồng rồi mẹ mới vỡ lẽ ra...ba chê bia và thuốc lá nhạt nhẽo, ba chỉ thích hút cigar và uống Whiskey thôi !!!
Ba mẹ cùng tuổi, cùng tŕnh độ, gia đ́nh môn đăng hộ đối nên t́nh cảm nảy sinh thật mau...ba mẹ yêu nhau và lấy nhau. Khi đó, ba đă ở trong Không Quân, đóng quân tại thành phố Nha Trang. Sau đám cưới, mẹ khăn gói theo ba về căn cứ nhưng vẫn tiếp tục đi dạy học, và thế là 2 người anh của tôi và tôi được chào đời ở Nha Trang. Tôi được ba đặt tên theo nơi được sinh ra, miền Thùy dương cát trắng...ba tôi lăng mạn ra phết, hỏi sao mẹ lại không thương ba suốt đời!
Đến năm 1963 th́ ba thuyên chuyển về Sàig̣n và được cấp nhà trong khu cư xá sĩ quan Huỳnh Hữu Bạc của phi trường Tân Sơn Nhất. Cư xá ngay sát sân bay nên ba tôi về nhà dễ dàng hơn và chúng tôi lớn lên trong t́nh yêu của ba mẹ. Những lần ba về phép là cả nhà rộn ră tiếng cười, ba cưng tôi lắm và tôi thường được ngồi trong ḷng của ba trong bữa cơm (con gái rượu mà!). Thuở đó tôi chỉ độ 4,5 tuổi nhưng tôi vẫn nhớ những khi ba về c̣n mặc bộ đồ đi bay, tôi rất thích quanh quẩn lục lọi và ṭ ṃ t́m kiếm cái ǵ ở trong túi bộ đồ bay... v́ có nhiều túi quá...???

Các em tôi cũng lần lượt ra đời nơi tổ ấm của ba mẹ. Mẹ thường nói "trời sanh voi sanh cỏ"...để sau này mẹ phải một ḿnh lặn lội thân c̣ kiếm cỏ nuôi lũ con thơ...(trong chiến tranh ai học được chữ "ngờ"!)... Năm 1967, khi mẹ mới sanh em út tôi được 1 tháng th́ cũng là lúc mẹ nhận được tin dữ. Khi nghe tin ba hy sinh, mẹ gần như ngất lịm...

"người đi một nửa hồn tôi mất
một nửa hồn tôi bỗng dại khờ" (Xuân Diệu)

Tôi nghĩ mẹ không chỉ mất đi một nửa hồn mà dường như mẹ suy sụp hoàn toàn! Mọi người xúm xít lo lắng cho mẹ v́ mẹ mới vừa sanh xong. Chúng tôi ngơ ngác khi thấy nhà ḿnh bỗng dưng đông người, và mọi người ai cũng khóc. Khóc, thương tiếc cho một người đồng đội, một vị chỉ huy trẻ đă anh dũng hy sinh cho đất nước. Khóc, xót thương cho một góa phụ trẻ với đàn con thơ nheo nhóc. Khóc, khi biết ḿnh sẽ không c̣n dịp gặp lại người thân yêu của ḿnh nữa!

Lúc đó mẹ chỉ mới 33 tuổi, tay ẵm đứa con mới sanh vừa đầy tháng tuổi, mẹ c̣n quá trẻ để tin rằng ba đă thật sự ra đi vĩnh viễn. Nh́n góa phụ trẻ và 6 mái đầu thơ chít vành tang trắng, ai cũng lắc đầu thương xót, anh lớn của tôi lúc đó 8 tuổi và em út tôi chỉ được 1 tháng tuổi.

"Con không cha như nhà không nóc,
con không mẹ như ṇng nọc đứt đuôi" (ca dao VN)

Chiến tranh đă cướp đi cái nóc của ngôi nhà hạnh phúc của chúng tôi. Cây cột trụ của căn nhà đă không c̣n th́ rồi chúng tôi sẽ ra sao đây???!!! Khi c̣n sinh thời ba là thiếu tá tư lệnh phó phi trường Trà Nóc Cần Thơ, ba luôn rộng răi giúp đỡ bạn bè và mọi người. Khi ba nằm xuống gia tài để lại cho mẹ là 6 đứa con thơ dại và số tiền tử ít oi. Chúng tôi c̣n quá nhỏ để có thể chia sẻ với mẹ gánh nặng gia đ́nh, đôi vai gầy của mẹ dường như thêm nặng trĩu! Tôi thật sự kính phục mẹ v́ mẹ đă không ủy mị nằm đó mà than khóc. Sau tang lễ của ba, mẹ lao vào công việc. Đôi mắt đẫm lệ của mẹ giờ đây đă lau ráo, chỉ c̣n lại những tia nh́n cương quyết dành cho tương lai!

Gom góp tiền bạc cùng số tiền tử nhận được, mẹ chỉ đủ tiền mua chiếc Subaru. Chiếc xe này đă là phương tiện di chuyển cho mẹ đi làm và đưa đón chúng tôi đi học, nó đă gắn liền với chúng tôi cho đến ngày mất nước. Nhờ có chiếc xe, mẹ đă nhanh chóng bắt nhịp với hoàn cảnh mới. Mẹ trở lại đi dạy ở trường Lê quư Đôn, hai anh tôi cũng học ở đây nên cũng tiện cho mẹ vừa đi làm vừa đưa đón con đi học.

Đến năm 1969, mẹ tôi chuyển về dạy ở trường phổ thông Quốc Gia Nghĩa Tử. Tôi đă không c̣n có dịp để hỏi mẹ, sao mẹ lại quyết định về dạy ở đây? Nhưng, tôi tin rằng mẹ sẽ nói v́ mẹ yêu nghề giáo và nhất là mẹ yêu những đứa con đă không c̣n cha, giống như những đứa con của mẹ! Tấm ḷng của mẹ thật bao la, mẹ thương những đứa học tṛ đă mất đi t́nh thương của người cha và những người mẹ phải vất vả một ḿnh nuôi con thơ. Thỉnh thoảng tôi lại thấy mẹ chở về nhà một vài anh chị học sinh QGNT, ở nhà chơi cuối tuần xong lại chở về trường, có lúc mẹ mở rộng cửa cho học sinh QGNT từ quê lên tá túc trong khi chờ đợi được xếp pḥng nội trú, hay đôi khi mẹ giúp chút đỉnh tiền cho những người đàn bà nghèo cùng cảnh ngộ... Mẹ thường nói "nh́n lên th́ ḿnh không bằng ai nhưng nh́n xuống th́ ḿnh vẫn c̣n hơn nhiều người. Mẹ may mắn được ăn học và có nghề nghiệp ổn định nên khi ba mất mẹ không phải bối rối khốn khó như những người chỉ sống bằng đồng lương của chồng!" Tấm ḷng nhân từ của mẹ trải ra cho mọi người, lúc nào tôi cũng thấy mẹ giúp đỡ những người khốn khó, mẹ cứ nói "thôi làm phước, để đức lại cho con"...mặc dù mẹ vẫn phải chạy gạo để nuôi chúng tôi mỗi ngày.
Tôi không hiểu làm thế nào, mặc dù bận rộn với sinh kế, mẹ phải đi dạy thêm trường tư để đủ chi tiêu, mẹ vẫn dành thời giờ tham gia những công tác xă hội. Mẹ đảm trách chức vụ hội phó Hội Quả Phụ Tử Sĩ VNCH, trưởng khu nội trú nữ của trường QGNT... Những cuộc ủy lạo chiến sĩ hay giúp đỡ nạn nhân băo lụt cũng không hề thiếu bóng mẹ. Với dáng dấp thanh tú quư phái cùng nụ cười hiền lành, bất cứ ai có một lần tiếp xúc với mẹ đă h́nh như thấy nỗi đau của ḿnh như dịu lại. Nếu so về sắc đẹp có lẽ mẹ sẽ thua xa các hoa khôi nhưng ở mẹ có sự thu hút lạ kỳ. Ở tuổi 33 mẹ c̣n trẻ để có thể đi thêm bước nữa, tuy dưới nách có 6 con, mẹ vẫn c̣n đầy vẻ quyến rủ và dĩ nhiên mẹ có nhiều người theo đuổi. Trước những cám dỗ ŕnh rập, mẹ vừa mềm mại nhưng thật cứng rắn từ chối sự tán tỉnh của nhiều người, dường như không ai có thể thay thế h́nh bóng ba trong tim của mẹ! Mỗi lần có đợt trao trả tù binh, tôi lại thấy mẹ chăm chú ḍ từng tên, với hy vọng có tên ba trong danh sách những người được trả về từ Bắc Việt. Tuy đó chỉ là chút lóe của tia hy vọng, nhưng điều đó, lại thêm sức cho mẹ vượt qua những thử thách và giữ tṛn sự chung thủy với ba. Ngày ba hy sinh, khi mẹ đến nơi th́ mọi người đă tẩm liệm cho ba, mẹ đă không c̣n dịp nh́n mặt ba lần cuối. Mẹ vẫn hy vọng ba chỉ mất tích, c̣n sống sót đâu đó hay bị bắt làm tù binh ở Bắc Việt và sẽ trở về xum họp với gia đ́nh một ngày không xa. Có ai thấu hiểu được nỗi cô đơn của người góa phụ trăn trở trong đêm dài, không người chia sẻ buồn vui, những giọt nước mắt khóc thương chồng thầm lặng, rồi vội vă nuốt ngược trở vào tim, để ngày mai với vỏ ngoài cứng rắn đối diện với cuộc sống?!

"Mồ côi cha ăn cơm với cá,
mồ côi mẹ liếm lá đầu đường" (ca dao VN)

Tôi không biết nếu đổi ngược lại, ba phải một ḿnh nuôi 6 anh em tôi th́ ba có c̣n giữ sự thủy chung và lo lắng cho anh chị em tôi đầy đủ hay không? Đồng lương dạy học của mẹ thật khiêm tốn nhưng chúng tôi ra đường lúc nào cũng đầy đủ tươm tất. Chúng tôi được đi học ở những trường tốt, những lớp học đàn, những sinh hoạt hướng đạo "sói con", "chim non"... mẹ vẫn dành th́ giờ để đưa đón chúng tôi. Mẹ vừa làm cha vừa làm mẹ, làm sao kể hết được những sự hy sinh của mẹ dành cho chúng tôi, cả tuổi xuân của mẹ đều dồn hết cho đàn con, mong sao chúng tôi sẽ khôn lớn trở thành những người ích lợi cho đất nước.

Khi biết tôi đậu đợt thi tuyển vào trường Tổng Hợp Quốc Gia Nghĩa Tử, mẹ rất vui v́ biết đă lựa chọn đúng trường cho tôi. Mẹ thường nhắc nhở tôi "công dung ngôn hạnh " làm đầu. Của hồi môn mẹ dành cho tôi không phải là tiền bạc mà đó là những lời dạy dỗ, những kiến thức... và đó là gia tài không hề hư mất bao giờ! Tôi c̣n quá nhỏ để hiểu hết những ưu tư của mẹ nhưng tôi rất thích ngôi trường mới này. Ở đây, tôi có những người bạn cùng cảnh ngộ mà tôi không phải mặc cảm khi bị hỏi về ba...Tuy tôi rất hănh diện về ba tôi, là một người hùng của đất nước, nhưng điều đó làm sao phủ kín được những giây phút buồn tủi khi thiếu vắng t́nh thương của người cha!

Dưới mái trường TH QGNT này, ngoài những môn học phổ thông b́nh thường, buổi chiều tôi được học thêm những lớp Kinh Tế Gia Đ́nh. Từ cách ăn nói, đứng ngồi khi giao tế, những đường thêu, mũi kim may hay cách nướng những ổ bánh thơm lừng..., tôi đă được các cô tận t́nh dạy dỗ. Sau này, những bài học quư giá đó đă là hành trang cho tôi bước vào đời, giúp đỡ tôi có thể xoay xở khi gia đ́nh tôi chuyển qua giai đoạn kinh tế khó khăn nhất...đó là những năm tháng sau 30 tháng tư 1975.

Biến chuyển sau tháng tư năm 75 đă làm mái tóc mẹ điểm thêm nhiều màu bạc trắng, những nét nhăn cùng ánh mắt ưu tư mỗi ngày một nhiều hơn! Mẹ tôi quyết định ở lại mặc dù chúng tôi có rất nhiều cơ hội để ra đi. Đă có những người bạn tốt của ba, trước lúc cất cánh c̣n nài nỉ mẹ gởi hai anh trai tôi đi cùng nếu mẹ muốn ở lại... Mẹ như gà mẹ túc đàn con dưới cánh, cho dù như thế nào th́ chúng tôi vẫn ở bên mẹ! Tôi không hề trách những quyết định của mẹ, mẹ vẫn nuôi hy vọng ba trở về từ lao tù Bắc Việt để gặp lại đầy đủ các con, mẹ vẫn mong đợi ngày đoàn tụ với những người thân c̣n ở lại miền Bắc đang theo đuổi lư tưởng Cộng Sản … Giống như mọi người khác, mẹ nghĩ chiến tranh đă chấm dứt, ḥa b́nh yên ổn cuối cùng rồi cũng đến với dân tộc Việt!

Thật là mỉa mai làm sao khi tất cả sự trông đợi đều đi ngược lại! Chủ nghĩa xă hội, chế độ cộng sản đă biến con người trở thành những người tàn nhẫn không c̣n t́nh thương, họ lạnh lùng tham lam và trở thành những kẻ nói láo, ăn cướp ngay cả với người thân trong gia đ́nh. Mẹ tôi thất vọng, chúng tôi thất vọng! Ngày giải tỏa nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, mẹ tận mắt nh́n xác ba trong bộ đồ bay, tuy thân xác đă thối rửa nhưng vẫn c̣n nh́n được dáng dấp cao lớn ngày nào...mẹ tôi không c̣n lưu luyến chờ đợi nữa!

Làm sao tả hết được sự cực khổ của mẹ tôi vào những năm sau 75. Mẹ bị thuyên chuyển về dạy học ở Hóc Môn, phương tiện di chuyển chính bây giờ là xe lam, sáng mẹ phải chen chúc đón xe thật sớm và đến chiều tối mới về. Đồng lương nhận được từ nhà nước thật khiêm tốn, chúng tôi giờ mới biết thế nào là độn khoai, độn bobo và gạo mốc! Đồ đạc dần dần vơi đi đổi lại chút gạo cho chúng tôi mỗi ngày. Anh tôi đau xót thương mẹ và bầy em thơ, đă muốn bỏ học để đi đạp xích lô phụ giúp gia đ́nh. Mẹ tôi nhất định không cho, dù chật vật nghèo khó như thế nào đi nữa, mẹ vẫn khuyến khích chúng tôi chăm học... và chúng tôi vẫn tiếp tục đến trường! Tôi không hề tiếc những ngày bị kẹt lại v́ bởi đó tôi hiểu rơ được sự tàn nhẫn lừa đảo của chế độ, tôi chứng kiến những đứa con mù quáng đi tố cha mẹ trong những đợt đánh tư bản...để rồi đổi lại vài tờ giấy biểu dương! Tôi lớn lên trong lúc đất nước đang trăn trở trong sự nghèo khó...và 38 năm trôi qua quê hương tôi cũng vẫn c̣n nghèo, con người ngày càng sa đọa vào hút sách, rượu chè, trai gái... Chế độ Cộng Sản đă thành công trong việc đào tạo nên những con người tàn nhẫn, tham lam, ích kỷ, sẵn sàng đạp lên kẻ khác để t́m chỗ đứng cho riêng ḿnh. Đằng sau những sự phồn hoa giả tạo là sự nghèo khó khốn cùng của người dân. Những cô gái sẵn sàng bán ḿnh sang Trung Quốc, Hàn Quốc...làm vợ chuyền tay cho cả gia đ́nh, mà vẫn bị ngược đăi đánh đập và rồi sau đó không biết ai là cha của con ḿnh...! Sau tháng tư 1975, quê hương tôi thực sự có ấm no hạnh phúc hay không (???), hay lại tiếp tục cảnh gia đ́nh tan tác, vợ tiễn chồng đi cải tạo không hẹn ngày về, mẹ gạt nước mắt khóc thương con bỏ ḿnh nơi biển Đông...!???

Cực khổ chật vật với từng bữa cơm, mẹ tôi luôn cương quyết ở lại thành phố Sàig̣n mặc dù họ cố khuyến dụ, lúc hăm dọa lúc ngọt ngào, dụ dỗ gia đ́nh tôi đi khu kinh tế mới. Với lư lịch của ba, các anh tôi không phải đi nghĩa vụ (bộ đội) nhưng phải đi lao động đào mương, trồng khoai ḿ... Tôi nhớ 1 lần anh tôi, tuy đang là học sinh nhưng vẫn bị ép buộc "xung phong" đi lao động trồng khoai ḿ, sau 1 tuần trở về dường như tôi gặp 1 người ốm đói nào đó, gương mặt hốc hác đen đúa, hai mắt đỏ ngầu...bởi v́ suốt 1 tuần lễ họ chỉ cho ăn toàn khoai ḿ và đọt khoai ḿ..., may mà anh tôi đi ít ngày nên chỉ bị ngộ độc nhẹ thôi!
Nói làm sao hết những sự cực khổ trong những ngày c̣n kẹt lại, cho dù hoàn cảnh như thế nào tôi vẫn thấy mẹ lạc quan và luôn là con chim đầu đàn hướng dẫn chúng tôi từng bước. Mẹ luôn dạy chúng tôi yêu thương và mở ḷng ra với mọi người. Sự lạc quan của mẹ làm cho chúng tôi không ngừng hy vọng cho 1 ngày tươi sáng hơn. Đúng là "ở hiền gặp lành"! Lúc gia đ́nh chúng tôi gần như kiệt quệ, không c̣n ǵ để bán nữa th́ chúng tôi nhận được sự tiếp trợ, những thùng quà từ Pháp, Mỹ gởi về gói ghém t́nh thương...cứu sống người thân c̣n kẹt lại! Tôi dùng chữ "cứu sống" thật sát nghĩa v́ nó đă giúp mẹ tôi kịp thời ra Bắc thăm nuôi các cậu. Cực khổ lội suối băng rừng, đi sâu vào nơi cải tạo, mẹ tôi phải mướn thêm người dẫn đường và phụ gánh đồ. Có lúc quá mệt mỏi và không mang vác nổi, mẹ đă tính bỏ lại bớt đồ...nhưng nghĩ đến em ḿnh, mẹ tôi lại tiếp tục bước đi. Nếu mẹ tôi đến chậm vài ngày có lẽ cậu tôi đă bỏ ḿnh nơi núi rừng Thanh Hóa, Vĩnh Phú v́ bịnh tật và đói! Trong mười năm, từ Bắc vào Nam, mẹ tôi đều đặn thăm nuôi các em ḿnh mỗi tháng cho đến người cuối cùng được thả về. T́nh chị thương em, t́nh ruột thịt máu mủ, lại tiếp tục chồng chất thêm lên đôi vai c̣m cơi của mẹ!

"Nếu cột đèn biết đi nó cũng đi", nhận rơ thực chất tàn bạo của chế độ XHCN, mẹ tôi quyết định rời xa quê hương hầu cho tương lai anh em tôi không bị nhận ch́m. Qua bao lần vượt biên thất bại, cuối cùng anh tôi cũng đến bến bờ tự do và cả gia đ́nh chúng tôi được định cư 3 năm sau đó. Lại một lần nữa mẹ phải làm lại từ đầu! Các anh em chúng tôi thay phiên nhau đi làm đi học, sống đùm bọc lẫn nhau, cố gắng thích nghi, ổn định trong cuộc sống mới. Để làm gương cho chúng tôi, mẹ ghi tên học lại College về Medical Assistant, với tuổi 58, mái tóc bạc trắng, mẹ trở lại học đường. Thời gian này chúng tôi cũng đă xong chương tŕnh cử nhân, anh em tôi bắt đầu có công việc ổn định. Chúng tôi vui mừng v́ thời cực khổ đă sắp qua, chỉ mong mẹ sẽ được an nhàn hưởng tuổi già... ngờ đâu thử thách lại đến! Mẹ bị ung thư, chứng bịnh nan y của thời đại!

Chúng tôi bất lực nh́n thân thể mẹ ngày càng hao ṃn bởi bịnh tật. Mỗi đợt vô thuốc Chemo là cơ thể mẹ lại vật vă quằn quoại v́ ảnh hưởng của thuốc. Mái tóc dầy của mẹ giờ chỉ c̣n lưa thưa và cuối cùng phải cạo sạch. Có những lúc tôi bắt gặp ánh mắt buồn lo của mẹ nhưng chỉ thoáng qua để dành cho nụ cười an ủi chúng tôi. Làm sao chúng tôi san sẻ được những cơn đau mẹ trải qua, chúng tôi chỉ biết cầu xin Thượng Đế cho mẹ được chữa lành...và cuối cùng phép lạ đă đến. Mẹ không c̣n phải vô thuốc nữa và vui mừng báo tin lành bịnh!!!

Mẹ đi hốt thuốc bắc để uống bổ lại sức, tóc mẹ mọc dài ra, vẫn mượt mà như ngày xưa. Gia đ́nh chúng tôi thật hạnh phúc khi thấy mẹ mạnh khỏe trở lại và bàn tính những chương tŕnh cho mẹ đi du lịch. Anh tôi an tâm, chuẩn bị tổ chức đám cưới. Mẹ cười rạng rỡ trong ngày vui của anh. Mẹ tôi tự hào có những người con thành đạt và giờ đây sẽ rời tổ ấm của mẹ tung cánh vẫy vùng giúp ích đời.

Sau đám cưới anh tôi 1 tháng th́ mẹ đột nhiên yếu, bỏ ăn. Sang ngày hôm sau, thứ bảy mẹ dường như khỏe lại, đ̣i ăn và chuyện tṛ với chúng tôi. Chúng tôi mong ngóng đến thứ hai sẽ dẫn mẹ đi khám bác sĩ lại... ngờ đâu tối đó, mẹ đă vĩnh viễn rời xa chúng tôi. Mẹ ra đi thật nhẹ nhàng trong 1 giấc ngủ. Chúng tôi bàng hoàng sửng sốt! Tại sao???!!! Mẹ chúng tôi đă mạnh khỏe rồi mà, tại sao lại xảy ra như vậy???!!!

T́m đến vị bác sĩ đă theo dơi chữa trị cho mẹ th́ chúng tôi biết được sự thật. Bịnh mẹ đă đến thời kỳ cuối, ông đă từ chối chữa trị tiếp cho mẹ v́ thấy không c̣n hy vọng! Mẹ đă tiếp nhận sự thật một cách can đảm và một lần nữa, mẹ im lặng giữ riêng nỗi buồn để đem đến cho chúng tôi niềm vui trọn vẹn. Ḷng mẹ thật bao la, t́nh thương mẹ vô bờ bến! Cả cuộc đời mẹ hy sinh dành trọn cho chúng tôi, chúng tôi thật hạnh phước khi được t́nh thương mẹ bao phủ. Mẹ ơi, chúng con đă không c̣n cơ hội để báo hiếu cho mẹ. Những lúc cực khổ mẹ lúc nào cũng kề bên chịu đựng bảo bọc cho chúng con, giờ chúng con nên người th́ mẹ đă không c̣n!
Mẹ là tiêu biểu cho bao người mẹ Việt Nam, oằn người gánh chịu sự thiệt tḥi từ chiến tranh. Cuộc đời mẹ lo buồn cực khổ nhiều hơn vui hưởng. Biết bao người góa phụ lặng lẽ thân c̣ nuôi con khôn lớn, làm sao chúng con đền bù lại cho mẹ đây?!

Đứng lặng trước mộ mẹ, h́nh ba lúc c̣n trẻ và h́nh mẹ lúc đă xế chiều. Hai mươi tám năm mẹ chung thủy chờ đợi ba, giờ mẹ đă trở về ḷng đất, yên nghĩ b́nh yên, có lẽ mẹ đă được đoàn tụ với ba... Sẽ không c̣n những lo toan nhọc nhằn, sẽ không c̣n những đau đớn vật vă v́ bịnh tật, chỉ c̣n lại chúng con với nỗi nhớ thương mẹ vô vàn! Mẹ ơi, chúng con sẽ ghi nhớ những lời dạy dỗ của mẹ và sống xứng đáng như sự mong muốn của mẹ.
Con của mẹ,

Thùy Trang
April 2013


 

 

 

HỒI TƯỞNG VỀ MỘT MÁI TRƯỜNG

Là một giáo sư, được động viên vào sĩ quan QLVNCH. Sau tết Mậu Thân, tôi được biệt phái về Viện Giáo Dục QGNT tháng 11/1968, và được viện Giáo Dục QGNT bổ nhiệm phụ trách pḥng Công kỹ nghệ của trường THQGNT cùng với GS Ôn Tấn Lượng.

Đến trường TH, mở cửa pḥng ra, một quang cảnh hỗn độn, dụng cụ máy móc ngổn ngang, tất cả đều do cơ quan giáo dục của Hoa Kỳ viện trợ. Tôi và thày Lượng phải sắp xếp lại những dụng cụ máy móc, dùng để dạy mộn nào, th́ xếp chung lại với nhau cho gọn gàng, ngăn nắp. Nhiệm vụ của pḥng công kỹ nghệ là dạy các môn: kỹ nghệ họa, mộc, g̣, hàn, máy dụng cụ, cơ khí, điện. Tất cả các môn đều có máy móc và dụng cụ (riêng môn máy dụng cụ và cơ khí th́ chưa v́ thiếu nhà xưởng và dụng cụ giảng dạy).

Những năm đầu chưa tổ chức giảng dạy, pḥng công kỹ nghệ phụ trách dạy cho các em thuộc trường Phổ thông, muốn trau dồi thêm nghề nghiệp th́ ghi danh theo học. Ngoài pḥng công kỹ nghệ, trường c̣n có các ngành học khác như: kế toán, đánh máy, ấn loát, kinh tế gia đ́nh (dành cho nữ sinh). Mục đích của trường TH là đào tạo một học sinh, sau khi học hết chương tŕnh (lớp 12-lấy bằng tú tài TH), nếu không vào được đại học, các em có đủ tŕnh độ, khả năng làm được những công việc như: thư kư đánh máy, nhân viên nhà in, phục vụ kinh tế gia đ́nh cùng các ngành nghề chuyên môn khác: thợ mộc, g̣ hàn, cơ khí, điện, máy công cụ, đồ họa ...

Chương tŕnh học của trường là theo chứng chỉ, cho nên khi đến lớp 12, phải hoàn tất các chứng chỉ của 3 năm học cuối mới được cấp văn bằng Tú tài TH. Trường THQGNT khai giảng do thày Trần Ngọc Hồ làm Hiệu trưởng, thày là người luôn sát cánh cùng với các thày cô của trường, hoạch định chương tŕnh giảng dạy sao cho việc tiếp thu tốt nhất cho học sinh. V́ đây là 1 chương tŕnh hoàn toàn mới, do cơ quan giáo dục của Hoa Kỳ tài trợ, giai đoạn đầu gặp nhiều khó khăn, thày Hiệu trưởng luôn động viên các thày cô cố gắng hoàn thành nhiệm vụ giảng dậy, giải quyết hết sức t́nh lư với các sự cố. Thày luôn tiếp xúc thân thiện và yêu thương học tṛ, nên được sự mến mộ từ các em.

Rồi biến cố 1975 xảy đến, thày cô và các em mỗi người một ngă! Tôi phải rời khỏi ngôi trường thân yêu mà ḷng không khỏi bồi hồi cảm xúc, ngôi trường với hơn 7 năm gắn bó, biết bao nhiêu kỷ niệm. Đến 24/6/75 tôi phải đi theo lệnh gọi (cái gọi là cải taọ!), thày tṛ kể từ ngày ấy lại càng xa hơn. Ở trong trại "cải tạo", lúc nào tôi cũng nhớ và nhắc đến các em với bạn cùng cảnh ngộ. Ngày tháng trôi đi, năm này đến năm khác kéo dài măi trong trại tù, và rồi một ngày nào đó tôi cũng phải được măn hạn tù.

Sau 20 năm, tôi cũng được trở lại Sài g̣n, mọi thứ đổi khác nhiều quá, tên đường cũng đổi, quang cảnh cũng đổi, và rồi biết bao biến đổi khác. Ngôi trường nay đi bên ngoài, nếu không chú ư th́ cũng chẳng biết ở đâu, v́ những ngôi nhà cao che khuất và trường cũng đổi tên. Ở Sài g̣n hơn 10 năm sau khi ra tù, tôi không gặp được ai nữa kể cả thày cô, các em học sinh sau bao năm xa cách, nay các em đă trưởng thành và hoạt động trong mọi lănh vực và nghề nghiệp. Nhưng trong rủi lại có cái may, khi ở trại tù Xuân Phươc - Đồng Xuân - Phú Yên, tôi gặp em cựu học sinh QGNT cùng chung trại, em cũng nh́n ra được tôi, thế là thày tṛ cùng hội ngộ cùng nhau, nhờ đó mà sau này tôi gặp lại được các em sau 35 năm xa cách.

Nói đến các em ở Sài g̣n,tôi lại nhớ đến các em ở Cần thơ. Trường QGNT Cần thơ tọa lạc trên mảnh đất nằm sát bên con đường vào Nghĩa trang quân đội Cần thơ, trên con đường Cần thơ đi B́nh thủy. Tôi và thày Lượng lo mọi công việc để chuẩn bị tổ chức ngày khai giảng năm học đầu tiên 1971-1972 do thày Chuyên từ trường trung học Long Xuyên được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng. Sau khi có thày Chuyên rồi, tôi và thày Lượng lại trở về trường THQGNT Sài g̣n. Trường QGNT Cần thơ cũng có khu nội trú, dành cho các em thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau biến cố 1975, các em bây giờ đang ở đâu, mà trong số các em về dự lễ TATC, hầu như đều có mặt chỉ vắng bóng thày cô và học tṛ QGNT Cần thơ?! Thày cô và các em hăy liên lạc về ...

Nếu kể lại sau 75 đầy sóng gió, đă đè nặng lên hai vai thày cô và các em, th́ kể sao cho hết, v́ chúng ta là người thua cuộc! Người thua cuộc luôn bị thiệt tḥi về mọi mặt, nhất là chính trị và kinh tế. Hồi tưởng lại thời gian qua, dưới mái trường thày tṛ vui vẻ, hồn nhiên của một ông thày trẻ và đám học tṛ nhỏ ... C̣n nay, thày tṛ ta cũng vui vẻ hồn nhiên của một ông thày già nua, học tṛ cũng đă có cháu nội, cháu ngoại, thôi th́ đây cũng là cuộc vui.

Thày Tâm

 

Thầy và Tṛ.

_______________________Thầy Nguyễn Thành Vân KT

"Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy..” ( NĐ ) không phải chỉ "trông thấy" mà chúng ta đă nếm đủ mùi hỉ, nộ, ái, ố của kiếp nhân sinh vô thường này. Thời gian, thời gian xóa mờ nhiều thứ, chỉ c̣n tồn tại một thứ T̀NH không có TIỀN. Nhưng nếu T̀NH mà hiện lên bởi chữ TIỀN th́ t́nh ấy sẽ biến đổi ra sao ?! Tôi muốn nh́n lại cuộc sống của ḿnh, nghiệm lại tác động của hai thứ t́nh và tiền.

Là kẻ được dạy học ít nhiều ở hai chế độ cũ và mới. Cái ǵ mới cũng phải tốt, phải hay phải đẹp hơn cái cũ, hy vọng vậy. Nhưng thực tế tôi đă gặp, đă nghe, đă thấy, tôi không thể phán đoán nó hay, dở, tốt, xấu. Những mảnh đời tôi đă sống, đă khóc, đă cười. Là kỷ niệm, là kư ức vui buồn hạnh phúc khổ đau. Thật riêng tư, nhưng trong riêng tư đó có các em.!

Tôi đến xin đạy học tại trường Kỹ thuật Q vào tháng 8 năm 1968, sau khi cởi trả áo lính, giă từ vũ khí, giă từ chiến trường quái ác. Thầy Hiệu trưởng T T Thông bắt tôi đạy thử. Tôi giảng bài "Giải trực tiếp phương tŕnh bậc 2 : ax2 + bx + c = o". Trước khi vào quân đội, tôi đă dạy toán trung học 2 năm tại Bảo Lộc và Minh Ḥa, nên điều này không gây khó cho tôi, và tôi được thâu nhận ngay. Thầy Hiệu Trưởng giao hết Toán, Lư, Hóa hai lớp Đệ Lục và Đệ Ngũ, Trường mới mở năm thứ hai nên chỉ có 1 lớp Đệ Ngũ. Đào Gia Ất làm lớp trưởng, lớp có mười mấy em : Phạm Trường Thọ, Nguyễn Ngọc Giao, Hoàng Phan Cư, Thân, Lạc, Phi Hùng ( ? ) Đồng…….Lớp Đệ Lục nhiều hơn, Lưu Mộng Hoàng, Nguyễn Duy Hy, Nguyễn Duy Kỷ, Đinh Văn Định, Ngô Công Uẩn...……..( không nhớ nổi ).

Năm học 68- 69 có hai lớp Kỹ Thuật Toán, Thầy Bùi Dă dạy văn, Thầy Nguyễn Khoan Hồng đạy Kỹ nghệ họa, Cô Đỗ Thị Phụng ( cùng nhận việc một lúc với tôi ) đạy Anh Văn, vài tháng sau Thầy Ngô Đức Hải về dạy Lư Hóa, Tôi phụ trách môn Toán, Thầy Tâm Giám Học. Ở xưởng tôi không nhớ rơ lắm, chỉ nhớ Thầy Nguyễn Ngọc Anh dạy Mộc, Thầy Thành dạy Điện, Thầy Phạm Văn Ḥa dạy Điện, Thầy Bùi Văn Đắc làm Tổng Giám Thị, và hiện Thầy đă”mất tích“!. Văn pḥng có Anh Thành, Cô Ánh Thư Kư, Bác Đường... và nhiều Thầy Cô khác nữa...

Được dạy học, một nghề tôi mơ ước từ khi c̣n đi học, hơn nữa lại dạy môn tôi thích. Trường ḿnh nhỏ nên thật ấm cúng. Ấm như một Gia đ́nh, mà Gia đ́nh Q thật sự. Các Thầy đa phần là cựu quân nhân, hoặc QN biệt phái, các Cô ít nhiều cũng có quan hệ nhà binh. Phần tôi, sau những ngày tháng lăn lộn trên chiến trường khốc liệt, lửa đạn lấy đi một phần thân thể, không c̣n chiến đấu được nữa. Về đây dạy các em, nh́n các em tôi thấy có một điều ǵ ràng buộc, những đứa trẻ mồ côi cha, những người đi trước tôi, và là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. H́nh ảnh họ chập chờn trong tôi.

Thật t́nh tôi chưa được qua một lớp sư phạm nào. Chỉ học ”Lănh đạo Chỉ huy” ở quân trường lớn nhất, và cũng khe khắt  nhất thời bấy giờ. Trên 50 năm về trước, tôi học Đệ tam B Ban Toán. Trường Vơ Tánh Nha Trang, Thầy Bửu Cân dạy tôi :”Trẻ con đến trường không phải để học, mà để học cái cách học _ L’enfant ne vient pas a` l’e’cole pour apprenđre, mais pour apprenđre a` apprenđre _ Tôi theo lời dạy của Thầy tôi, hướng dẫn các em.

Tôi không bắt các em học thuộc ḷng, rập khuôn theo các bài mẫu, giải sẵn, các em phải tự soạn bài, tự t́m giải đáp cho các vấn đề, từ dễ đến khó. Môn toán quá quan trọng, nhất là ban Kỹ Thuật Toán. Nhưng đạy Toán là dạy thế nào đây ? Giáo Sư Nguyễn Văn Trường viết ”dạy Toán mà chỉ nhắm vào các bài mẫu, sự luyện thi, chiếm bằng cấp để sống nhờ bằng cấp, tức là đào tạo những con người vị kỷ, thụ động, muốn hưởng thụ trong một xă hội nghèo đói !... Dạy Toán một cách đứng đắn th́ những đề mục ghi trong chương tŕnh, những định đề, định nghĩa, định lư có thể ch́m trong trí nhớ, nhưng niềm tự tin, tính ngay thật, kiên nhẫn, tŕ chí, các phương pháp suy luận, phân tích, tổng hợp, thói quen t́m ṭi, thứ tự… mà Toán học đ̣i hỏi, sẽ tồn tại măi trong con người… giúp con người giải quyết được những vấn đề lớn nhỏ hằng ngày…” Toán là suy luận. Từ định đề, định nghĩa, định lư…đến các định lư khác. Tôi muốn các em phải có tinh thần tự lập, tự chủ,, không nô lệ, không sợ hăi, phải ngay thẳng, chính xác. Chính xác từ các dấu bằng, dấu cộng, đấu trừ, dấu gạch ngang phân số. Và vốn bản chất nhà binh nên tôi có phần nghiêm khắc với các em !. Đă có những lần xé vở soạn Toán của các em, phạt quỳ gối, kể cả cán chổi long gà vào mông các cậu lười soạn bài. Trái với sư phạm thật, nhưng mong các em hiểu cho chỉ v́ muốn các em học giỏi. Và các em đă học giỏi thật., với 4 năm liền các em thi Tú Tài 2 kỹ Thuật đậu 100%.. Thi vào Bách khoa, Sư phạm Kỹ Thuật các em đều đậu nhiều. Các Thầy Cô trường ḿnh có giấy khen của Bộ Giáo Đục, đó là phần thưởng lớn nhất của tôi.

Năm học 69-70 Trường ḿnh thay đổi nhiều. Thầy Hiệu Trưởng chuyển công tác về Trường V.B.Q.G. Thầy Cự làm Hiệu Trưởng. Thầy Huỳnh Hữu Tâm Giám học cũng được Thầy Đỗ Đại Thanh Vân về thay, Các lớp học được mở thêm. Ngoài Kỹ Thuật Toán, c̣n có Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp, Kỹ Thuật Nữ Công Gia Chánh. Các Thầy Cô cũng được tăng cường nhiều. Cô Triệu Thị Chơi, Cô Trầm Ngọc Tuyết, Cô Nguyễn Thị Xưng Huê, Cô Nguyễn Thị Thanh Long, Cô Ḥa đạy Lư Hóa, Thầy Nguyễn Văn Hồng, Thầy Ninh Thế Việt đạy pháp ngữ, Thầy Đỗ Trọng Ḥa, Thầy Phan Tấn Chữ đạy Điện Tử, Thầy Huỳnh Thanh Hải, Thầy Nguyễn Cao Mỹ Kỹ Nghệ Sắt, Thầy Vơ Phú Cường, Thầy Nguyễn Thế Thọ, Thầy Vương Thành Phát, Thầy Nguyễn Hữu Phi, Thầy Thành ( Điện) Thầy Thông ( Ô Tô ). Trường ḿnh càng đông càng vui. Thầy Cự chuyển công tác khác, T T Đặng Trần Đư chuyển về làm Hiệu Trưởng, bao nhiêu công việc Trường phần lớn Thầy Đỗ Đại Thanh Vân quán xuyến. Năm sau Thầy Huỳnh Sơn Cương về làm Hiệu Đoàn Trưởng.

Thầy Giám Thị Tâm với tôi cũng có một kỷ niệm nhỏ. Hôm đó, h́nh như đâu năm học 70-71, tôi vào Trường, Thầy đưa cho tôi bài làm của em Đàm

Quang Mai bảo tôi chấm. Đây là bài toán thi vào lớp 10 Kỹ Thuật Toán. Tôi thấy em không làm được nên cho 00 ! Thầy bảo : ”Ư chết, nó là cháu nội của Đại tá Đàm Quang Yêu, bạn thân của Bác Sỹ Viện Trưởng, mà sao Bạn cho điểm vậy ?” Tôi cười bảo : ”Cho nó vào học là quyền của Bạn, nó không làm bài được, tôi cho 00 điểm là việc của Tôi”. Sau đó sắp xếp cho em vào lớp Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp. Tôi quan niệm Kỹ Thuật Toán học được là phải khá Toán, ham thích môn Toán. Con đường của Kỹ Thuật Toán là Bách Khoa, là Sư Phạm Kỹ Thuật, nếu không đạt được yêu cầu th́ nên đưa các em vào Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp các em đễ thành công hơn. Với Tôi tất cả các em đều như nhau. Hướng đẫn các em với tất cả sự hiểu biết, với tất cả tấm ḷng, bất chấp thế lực nào. Nếu v́ một vấn đề nào đó mà đưa các em vào nơi không thích hợp, th́ đó là thương mà hại.

Tuy đứng lớp dạy Toán, nhưng sinh hoạt Hiệu đoàn của các em tôi đều tham dự. Từ văn nghệ ca hát, thể thao cho đến làm Báo Xuân. Hôm chạy bán Báo Xuân cũng có nhiều kỷ niệm vui vui…

Năm 1974, Viện điều tôi qua khu Nội Trú, Tôi chỉ c̣n vài giờ Triết học, lớp 12 K T T ( Môn luận lư ). Nội Trú tôi nhận một cơ ngơi tan tành với nhiều lời ”cảnh báo gian nan !“. Các em bất măn v́ : ”Người ta nuôi các em như nuôi Gà Công Nghiệp“. Tôi t́m hiểu sinh hoạt  ”Nội Trú”, và bắt đầu xây dựng lại. Trước tiên sửa chữa pḥng ốc, của sổ, bàn ghế tủ gường. Hệ thống thoát nước pḥng vệ sinh đều bị nghẹt, phải đục ra xây lại. Vấn đề nước sinh hoạt cho các em, tôi cho xây hồ chứa nước trong mỗi pḥng, để buổi sang các em không c̣n tranh nhau. Trang bị xô, gáo nhựa. Hệ thống nước cũng được sửa lại, mở nước hợp lư từ pḥng trên cùng xuống các pḥng đưới, để pḥng nào cũng có nước. Việc tiếp nhận các em vào Nội Trú cũng được tổ chức chu đáo. Mỗi pḥng đều có sơ đồ cho các em, bàn ghế, gường tủ đều có dán tên mỗi em, để các em trách nhiệm.

Vào năm học, tôi sinh hoạt, chuyện tṛ với các em mỗi tuần một tối, khoảng 2 tiếng, khêu gợi t́nh thương yêu, tính kỷ luật để xây đựng một Gia Đ́nh Q ấm áp t́nh người. Chỉ một thời gian ngắn, tôi rất hạnh phúc ( không phải thứ ”hạnh phúc” đề trên đầu mỗi lá đơn ! ) được các em ngoan, các em vâng lời, chăm chỉ học hành, các em đă xem tôi là Bố, là Ba. Mỗi chiều sau bữa cơm, tôi vào đứng dưới sân chờ đi dạy lớp Đêm, các em vây quanh quấn quưt bên ”Ba”. Các em có biết tôi vui sướng ngần nào không ??. Trong Gia Đ́nh Nội Trú, các phân khu trưởng T U Huấn, Bác Uyển, Cô Huệ cùng các Giáo Sư, Giám Thị, nhân viên đều hết ḷng thương yêu các em, làm việc chăm sóc các em tận t́nh. Tôi nhờ Cô Nguyệt, Dược sỹ chăm sóc hướng đẫn cho các nữ sinh, Cô Quế trực đêm lo về Y Tế ban đêm. Ngân sách nhà nước cung cấp cho ḿnh rất hạn hẹp, bác Uyển luôn t́m cách cải thiện bữa ăn cho các em. Tuổi đang lớn mà ăn uống quá kham khổ, Bác Uyển bàn với tôi lấy tiền ”đư thực”_ Nguyên tắc phải nộp lại ngân sách._ Cho các em 2 tuần một bữa Chè !!. Để giải trí, tôi quan hệ với Nhạc Sỹ Nguyễn Hữu Sáng Trưởng Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương để các em được xem Đại Nhạc Hội, tại pḥng ăn vào mỗi chiều thứ bảy. Ḿnh cũng có sinh hoạt Hiệu Đoàn_ Trần Xuân Cầu làm Hiệu Đoàn trưởng. Thầy Tṛ ḿnh cũng lên sân khấu ca hát. Tôi c̣n nhớ viết Bích Báo, các em đă tả ”Tô canh Nội trú ”:”Tô canh lạnh lẽo nước trong veo......Một con cá tẻo teo !”.

Cuộc sống êm đềm với bao ước mơ, một chương tŕnh cho năm tới, sẽ cải thiện nhiều hơn, sẽ có nhiều hoạt động xă hội hơn…Nhưng !! Biến cố… Đêm 29, Một trái pháo rơi vào pḥng nữ sinh. May mắn là Giám thị đă cho các em đi tản ra phố cả…

Rồi Thầy Tṛ ḿnh tan ră từ đó… Thời gian quá ngắn ngủi... Nhưng thời gian này, công việc tôi đă làm này có ư nghĩa nhất trong đời tôi. Tôi cám ơn các Em, những đứa trẻ mồ côi, những đứa trẻ thiếu t́nh thương. Chính các em đă cho tôi cơ hội thể hiện t́nh thương yêu, cho tôi một cuộc sống biết nâng niu, biết quư trọng t́nh người, Mà măi về sau này, tôi chỉ sống như một động vật, chỉ quần quật t́m cái ăn cho tồn tại thân xác này thôi.( duy vật cơ !). Tôi cũng đi đạy nhiều nơi sau đó, nhưng có lẽ không nơi  nào có nhiều kỷ niệm và T́nh cảm bằng ngôi Trường Q.

Các em thân yêu của tôi, Tôi viết ra những điều này hẳn các em đă biết cả rồi.... Thôi tạm đủ, Chào các em… Chúc các em sức khỏe.

 

 

Vợ Người Chiến Binh

 

•Thân tặng các em học sinh QGNT, có những người cha

hào hùng và những người mẹ can đảm, giàu tình yêu thương.

Hoài Thu Phương

 

 

Áo cưới em may,

Còn thơm mùi vải mới,

Rượu hồng em nhắp

Còn thắm ở bờ môi.

Một phút chia phôi,

Nghìn đời vĩnh biệt !

Anh bỏ lại, mẹ con em đơn côi.

Ra đi không thương, không tiếc !

Sao em không biết ?

Lấy chồng chiến binh

Để trở thành goá phụ !

Anh ơi, mỗi độ thu phong,

Dấu con lệ chảy ròng ròng !

Mùa thu, rụng lá ngô đồng

Đau đớn thay, em sống cảnh cô phòng !

Mẹ con em vẫn đợi, vẫn mong.

Hậu mình số phận long đong !

Thương anh chết cả cõi lòng

Tuổi trẻ em khóc chuyện "mất" chồng !

Anh đi trả nợ non sông,

Chờ ngày đoàn tụ thành công,

Ai ngờ số kiếp bềnh bồng !

Em đành ôm con đứng đợi mong !

Chăn đơn, gối lẻ lòng em lạnh.

Bây giờ em cô đơn bất hạnh !

Nhìn thời gian trôi qua nhanh.

Anh chết rồi, đời em vắng lạnh !

Em buồn khóc nơi phố vắng !

Thương nhớ hình bóng anh năm nào !

Anh về tận cõi lao xao !

Còn anh đâu nữa mà mong với chờ

Đời em lạc lõng bơ vơ !

Cuộc sống vô duyên, quá hững hờ,

Tâm hồn em quá xác xơ !

Em sầu lẻ bóng, gió nào lạnh hơn ?

Hoài Thu Phương

Giáo Sư Phan Thanh Tâm

 

 

 

NHỮNG KỶ NIỆM TẠI TRƯỜNG QUỐC GIA NGHĨA TỬ

Vào khoảng đầu tháng Mười năm 1967 tôi nhận được Sự vụ lệnh của Bộ Quốc-Gia Giáo-Dục thuyên chuyển từ trường Trung-học Thủ-Đức về dạy tại trường Trung-học Quốc-Gia Nghĩa-Tử Sài-G̣n. Trường này trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh, dưới sự điều-khiển của Bác-sĩ Đại-tá Viện-trưởng Trương Khuê Quan và Trung-tá Viện-phó Bùi Trọng Chi. Do sự viện trợ của Hoa-Kỳ nên trường rất lớn và được xây cất trên một khu đất rộng lớn, ở gần Ngă Tư Bẩy Hiền. Trường cao ba từng, các lớp học đều rộng răi và có tấm bảng xanh gắn liền vào tường như các lớp học tại Mỹ. Trường có các lớp từ đệ thất đến đệ nhất. Trường có khoảng 100 nhân viên gồm Hiệu trưởng, Giám-học, Giáo-sư, Giám-thị và thư-kư văn-pḥng Hiệu-trưởng. Nhà trường có một pḥng họp rất lớn để cho các Giáo-sư ngồi giải lao lúc trước giờ dạy học và lúc ra chơi. Cái đặc biệt ở trường này là các nam và nữ Giáo-sư ít khi nói chuyện với nhau và thường ngồi thành hai khu riêng biệt. Nam Giáo-sư th́ ngồi ở phía trong, gần tường c̣n nữ Giáo-sư th́ ngồi ở phía đối diện, ngay gần cửa ra vào.
Tại trường Quốc-Gia Nghĩa-Tử tôi đă gặp lại nhiều bạn bè cũ như Đỗ thị Lĩnh, Nguyễn thị Bắc và Trần Kim Loan, học cùng với tôi từ lớp nhất trường Lệ-Hải, Hải-Pḥng, Bắc Việt Nam, Nguyễn Kim Xuyến, Nguyễn thị Dung từ trường Trung-học Trưng-Vương rồi Đỗ thị Huệ và Trần Kim Oanh, bạn học từ trường Đại học Văn-khoa Sài-G̣n. Nữ Giáo-sư cũng chia thành hai nhóm: Các cô độc thân ngồi nói chuyện với nhau như Thu-Hoài, Thọ-Đa, Đỗ Dương Chi, Mai ... C̣n các bà thường ngồi nói chuyện với nhau về con cái, chợ búa, các món ăn ... Nhóm chúng tôi gồm có tôi, Lĩnh, Xuyến, Dung, Thu, Diệp, Tần, Ẩn, Hương ... Tần có tài nói chuyện pha tṛ nên rất vui.

Các học sinh của trường Quốc Gia Nghĩa Tử phần nhiều là con của các Hạ Sĩ quan tử-sĩ hoặc phế-binh nên đời sống cũng eo-hẹp. Lớp tôi dạy có một nữ-sinh tên Liên ngày nào tôi cũng thấy em mặc áo dài trắng đă cũ mà hai khuỷu tay đều bị vá thấy thương quá nên tôi bảo em đưa áo mẫu, tôi mua vải phin nơn may áo mới cho em. Sau khi nhận được áo mới, mấy hôm sau em trao cho tôi một tấm thiếp do ba của em viết cám ơn tôi và ngỏ ư muốn tôi nhận em làm con nuôi. Tôi đă viết thư cám ơn hảo ư của ông nhưng tôi từ chối viện lư do là tôi không đủ khả năng để nuôi em, c̣n chỉ nhận suông thôi th́ tôi không muốn. Ở một lớp Đệ-thất, có một nam sinh tên là Thành, chả bao giờ thuộc bài nên nh́n vào sổ điểm thấy các Giáo-sư Toán, Lư-Hóa, Sử-Địa ... đều cho điểm không và có vị c̣n viết kèm lời phê là "Không thuộc bài." Tôi thắc mắc nên muốn t́m hiểu. Một hôm nhân buổi ra chơi, tôi ở lại lớp rồi gọi Thành lên và hỏi là tại sao em lại không chịu học. Tôi được em cho biết là v́ nhà nghèo nên buổi tối em thường phải đi thổi kèn đám ma để lấy tiền phụ giúp cho gia-đ́nh. Em vui vẻ kể cho tôi nghe những buổi em đi theo phường kèn ra sao. Về sau trong giờ dạy của tôi có lần Thành đă đưa tay lên để xin đọc bài. Tuy không thuộc lắm nhưng chứng tỏ cho thấy em đă cố gắng làm cho tôi ngạc-nhiên và cảm-động.

GIÁO-SƯ NGUYỄN THỊ XUÂN-NGA
Trích trong HỒI KƯ "CUỘC ĐỜI DẬY HỌC"


 

 

 

 

 

 

Qua Cổng Trường Xưa

Thương mến gửi về Quư Đồng Nghiệp cũ và các em Học Sinh Quốc Gia Nghĩa Tử ngày xưa.
Kính tặng hương hồn Trung Tá Trương Khuê Quan, Thiếu Tá Bùi Trọng Chi và Hiệu Đoàn Trửơng Lâm Hữu Bàng.

Trở về Việt Nam bao nhiêu lần mà tôi vẫn c̣n đắn đo có nên thăm trường cũ không? Mà có ai c̣n nơi đó để mà thăm?
Tôi xa trường Quốc Gia Nghĩa Tử từ tháng bảy năm 1967, vài ngày sau khi Hiệu Trưởng Thân Trọng Huề đến nhậm chức. Đến chào Tân Hiệu Trưởng để thanh minh: “Thưa Hiệu Trưởng tôi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển trước khi Hiệu Trưởng đến đây. Vậy là tôi đi không phải v́ Hiệu Trưởng đến.” Và hôm ấy không biết Hiệu Trưởng Thân Trọng Huề buồn lo chuyện ǵ mà chỉ nói một câu giă từ ngắn ngũi, “Je m’en fiche.” Thế là từ dạo ấy tôi không có dịp trở lại ngôi trường xưa, nơi mà ấp ủ bao kỷ niệm với các bạn đồng nghiệp và những học sinh thương mến.

Thuở trường Quốc Gia Nghĩa Tử khai giảng niên học đầu tiên năm 1963-64, chúng tôi gồm 4 nữ giáo sư và vài nam giáo sư dân sự: gs Vạn Vật Nguyễn Văn Thơm, gs Pháp Văn Lê Quan Tấn, gs Vật Lư Vũ Ngọc Vĩnh, gs Sử Địa Nguyễn Đôn Phong, gs Toán Nguyễn Phúc Khánh. Quả thật chúng tôi là dân thiểu số giữa những thầy Kaki đẹp trai lúc nào cũng chỉnh tề trong bộ quân phục thẳng nếp. Hai chị giáo sư Việt Văn Hồ Thị Ngọc Nữ, Vơ Thị Ngọc Dung và về sau có thêm chị giáo sư vật lư Nguyễn Thị Kim Loan bận lo bổn phận làm mẹ hàng năm nên chỉ c̣n Nguyễn Lan Phương và tôi thừơng bị “chịu trận” ở trường Thiếu Sinh Quân mỗi khi hè về với một đám học tṛ loi nhoi đủ lứa tuổi từ đệ thất đến lớp mười hai. Năm sau có thêm kiều nữ giáo sư vạn vật Ngô Thị Băng Sơn tiếp tay và những năm kế tiếp có thêm gs Việt văn dẹp mê hồn Ngô Thị Thu Hà và gs Việt văn Nguyễn Thị Hoà lúc nào cũng làm vui nhà vui cửa mỗi khi Chị hiện diện.

May mắn là vị giám học Lâm Hữu Bàng rất-là-nhà-binh luôn làm trại trửơng có biện pháp kỷ luật cứng rắn nên trại sinh lúc nào cũng theo nề nếp và tôn trọng giờ giấc trong các trại hè. Ngoài ra quư nam giáo sư như Trần Văn Đắt, Hoàng Đ́nh Lộc, Nguyễn Văn Xiêmm Hoàng Xuân Thiệu (thuở ấy chưa làm hiệu trưởng) Hồng Quang Anh, Huỳng Văn Quảng, Lê Văn Khiết, Bùi Quốc Tường, Nguyễn Khánh Do, Nguyễn Tri Văn, Trần Quốc Giám, Vũ Viết Dy, Phan Văn Cừ, Phan Văn B́nh, Trần Đ́nh Thanh, Lê Thái Ất, Diệp Vĩnh Tấn (c̣n ai nữa nhĩ? xin đánh chữ đại xá cho nếu lở quên nêu tên) rất là dễ thương sẵn sàng làm thay các nữ giáo sư “ốm yếu” những ǵ trong khả năng. Nhưng có một lần quư vị nam giáo sư không biết làm sao ra tay giúp mà chỉ đứng thập tḥ ở cửa ra vào pḥng ngủ nh́n các nữ sinh oằn oại rên la kêu khóc. Chẳng là chiều hôm đó nhiều nữ sinh bị ngộ độc thực phẩm sau bữa cơm chiều nên vừa nôn vừa khóc ầm ỉ. Có em phải lê lết xuống cầu thang để lên xe tới bệnh viện. Các nữ giáo sư quả thật là tay mềm chân yếu không sao bê các em nỗi. Rất may là hôm sau các em vui vẽ trở về đoàn tụ với gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử tiếp tục những ngày vui ở Vũng Tàu sau một phen hú vía.

Sống vui với đại gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử đến tháng bảy năm 1967, tôi “đào ngũ.” Tôi ra đi – không phải theo tiếng gọi của con tim của ông bồ quân dược mà học sinh ngỡ là Phi Luật Tân do nứơc da đen ḍn và mái tóc dợn– mà v́ nhu cầu nghề nghiệp. Ngày tôi ra đi có lẽ giúp ông Tổng Giám Thị Mười và Hiệu Trưởng Bùi Trọng Chi thở phào nhẹ nhơm, không c̣n phải lo “Chị sao mà chiều chúng nó thế!” Trong nghề dạy học tôi áp dụng Triết lư t́nh thương chứ không phải kỷ luật để giáo dục học sinh. Không biết Hiệu trưởng Bùi Trọng Chi báo cáo về tôi với Viện trưởng ra sao nhưng mỗi lần họp là tôi có đề tài để xin thảo luận và cứu xét cách nào cho hợp với việc giáo dục thành phần học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử. Thế cho nên lần đầu tôi tŕnh diện với Viện Trửơng Trung Tá Trương Khuê Quang, ông nh́n tôi rất kỹ rồi hỏi lại “À, ra Chị là Vơ Kim Sơn phải không?” Trung Tá Trương Khuê Quang hẳn là ngạc nhiên v́ trông vẻ bề ngoài của tôi không đến nỗi “tân tiến” lắm dù tôi ở Mỹ mới về c̣n thơm mùi “hot dog” và “hamburger.”

Đa số các em học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử thiếu vắng t́nh thương. Cha Anh đă ngă gục ngoài trận tuyến. Mẹ th́ phải tảo tần lo cho cuộc sống gia đ́nh hàng ngày, nên giao các em cho bà ngoại, bà nội trong nom. Có em phải đeo ṭn ten phía sau chiếc xe đ̣ cà rịch cà tang lê lết từ Hóc Môn thả các em xuống ngă tư Bảy Hiền để đến trường, tay cắp sách, tay ôm b́nh cà rem. Có em học sáng xong là ôm b́nh cà rem bán suốt buổi chiều hay ngược lại là phải bán hết cà rem để kịp vào lớp lúc một giờ. Khi gọi các em đọc bài không thuộc tôi không nở hạ bút khoanh tṛn trứng vịt v́ các em phải bị “consigne” ngày Chúa Nhựt,” rồi ai sẽ gánh nước cắt rau, tưới cải, nhổ cỏ bón phân vườn rau thay cho các em đây?

Tôi không phạt. Tôi không rày. Ngô Chí thiền làm chứng cho tôi nhé. Đây là cậu học tṛ phá tôi nhất. Vừa điểm danh xong, quay lưng lại để viết bảng là nghe tiếng, “Thưa cô Ngô Chí Thiềng nhảy cửa sổ.” Thế mà các em học ban A ra thi Tú Tài đều được điểm cao với môn Vạn Vật. Đặc biệt là Vương Thị Ngọc Dung, Nguyễn Thị Thu Thủy, Lê Hồng Đa, Trần Cao Cử, Lê Thị Mát, Nguyễn Thị Nguyệt và cũng là hiền thê của thầy Trần Văn Đắt. Xin hỏi nhỏ thầy Đắt một câu nhé. Làm sao mà Thầy được vướng vào “Ṿng tay học tṛ” vậy? C̣n ai được điềm Vạn Vật 19/20 thuở ấy, nhớ lên tiếng nhé.

Rồi đến khi sang Mỹ học lại vào năm 1972, tôi đựơc gặp một số học tṛ cũ ở QGNT ngày xưa đựơc tuyển chọn theo chuương tŕnh leadership programs. Mừng ơi là mừng đựơc gặp nhau trên đất Mỹ, ở cái thuở mà trên toàn đất Mỹ chỉ có vơn vẹn 800 ngừoi Việt Nam kể cả nhân viên Ṭa Đại Sứ Việt Nam.

 



Rồi năm nghiệt ngă 1975 đến. Chúng tôi chia tay nhau. Người quay về cố quốc, kẻ sang Mexico hay Canada t́m kế lưu ngụ hải ngoại v́ chiến tranh ở quê nhà đến hồi kết thúc không thuận lợi cho miền Nam Việt Nam. Chúng tôi mất tin tức nhau suốt thập niên 70’s và 80’s ngoại trừ Xuân Mai đến rũ rê cùng nhau vựơt biên mấy năm liền mà không thành.

Rồi dến đầu thập niên 90, có đại hội QGNT lần đầu ở Orange County. Chỉ có thầy Phạm Nghệ là không thay đổi v́ thầy vốn gầy g̣ muôn thuở. Gặp lại, chúng tôi bỡ ngỡ âm thầm hỏi nhau, “có phải ngừơi xưa không nhĩ?” Đă mấy thập niên xa nhau! Hàng mấy chục năm đó đủ cho mái tóc đổi màu,- mà không cần đền bàn tay khéo léo của cô thợ làm tóc- và đủ để bàn tay khắc nghiệt của thời gian tạc những lằn phân chia ranh giới mắt, mủi, môi, miệng trên những gương mặt tươi mát của ngày xưa.

Rồi ít khi gặp lại nhau. Tôi cứ tưởng chừng những kỷ niệm xưa đă đựơc chôn vùi dứơi lớp thời gian mấy mươi năm dày đặc. Măi cho đến năm 2000, trên đừơng từ Nam Vang về đến Saig̣n bằng ô tô, khi ngang qua cỗng trừơng Quốc gia Nghĩa Tử, có ngừơi hỏi, “Đây có phải là trừơng QGNT không?” Tôi run giọng trả lời, “ Vâng. Bên ng̣ai trông bệ rạc với những hàng quán la liệt, nhưng bên trong đó tôi có nhiều kỷ niệm dấu yêu không tiền của nào mua lại đươc.”

Vơ Kim Sơn
Nhân dịp hội ngộ Gia Đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử tại San Jose 8-8-2003
 

Lời Cám Ơn Muộn Màng

Thành thật cám ơn Ban Giám Đốc, Quư Đồng Nghiệp và các em Học Sinh trừơng Quốc Gia Nghĩa Tử Sàig̣n năm xưa.  Chính ngôi trừơng nầy đă giúp tôi, một cô gíao trẻ từ ngọai quốc trở về bắt đầu ư thức và học hỏi thích ứng vào quê hương đang bị ảnh hửơng chiến tranh dày ṿ.

Ban Gíam đốc mở rộng ṿng tay đón nhận tôi về trừơng vừa lúc khai giảng năm đầu tiên. Đặc biệt nhớ ơn Hiệu trửơng Bữu Trí và Đại Uư Bùi Trọng Chi cùng Giám học Lâm Hữu Bàng quá tin tửơng nên cho phép tôi tự do áp dụng cách giảng dạy mới trong lớp học. 

Chính ở ngôi trừơng nầy tôi đựơc quư đồng nghiệp thật cởi mở, đă chân thành dành cho tôi t́nh bạn thân thiết nên mỗi buổi đến trừơng là một niềm vui. Đặc biệt là quư Thầy Trần Văn Đắt, Hoàng Xuân Thiệu, Vũ Ngọc Vĩnh, Nguyễn Văn Thơm, Hồ Thị Ngọc Nữ, Vơ Thị Ngọc Dung, Lê Quang Tấn cùng chung thời khóa biểu nên gặp nhau mỗi tuần đủ ba buổi.  Vậy mà cũng không baogiờ nói hết chuyện muốn kể cho nhau nghe.

Và các em học sinh Quốc Gia Nghĩa tử, các em có biết chăng là tôi mang nợ các em nhiều lắm không?  Với một số ít các em đựơc nhận vào trừơng  QGNT dù cha, anh các em vẫn c̣n phục vụ đâu đó. May mắn cho các em nầy. Nhưng với số đông học sinh c̣n cha phục vụ trong quân đội, không đựơc hửơng đặc quyền đó th́ sao? Tôi nghĩ là con em của quân nhân  đều xứng đáng hửơng quy chế nhập học trừơng QGNT chứ, v́ cha anh các em phải  chấp nhận đồng lương khiêm nhừơng, lại có khi phải sống xa gia đ́nh để phục vụ tổ quốc. Ừ nhĩ, thuở ấy sao không có ai tranh đấu quyền lợi cho con em quân nhân c̣n sống đựơc vào trừơng QGNT?

Mỗi khi nh́n thấy những trẻ con c̣n đủ cha mẹ, tôi h́nh dung cảnh đứa trẻ đựơc hạnh phúc  tung tăng đi giữa cha mẹ đôi bên che chở, đùm bọc và hứơng dẫn con trên đừơng đời. C̣n khi mất Cha rồi th́ đứa bé tiến lên một ḿnh và chỉ có mẹ hoặc bà lẽo đẽo theo sau.  Các em phải tự ḿnh đương đầu với mọi sóng gío để đi vào tương lai.  Nghĩ đến đó tôi khâm phục các em lắm và nhất là những học sinh “đàn anh, đàn chị” c̣n phải tiếp sức với mẹ với bà nội, ngoại lo cho bản thân cùng đàn em dại.  Có những lần ham vui thức khuya, tửơng rằng khi vào lớp sẽ mệt mơi lắm và tôi sẽ nói qua quưt cho hết giờ.  Nhưng bứơc vào lớp, nh́n những gương mặt hiếu học của các em, biết những cố gắng phi thừơng của các em mới đựơc đến trừơng, tự nhiên tôi hăng say giảng dạy v́ nhớ rằng các nam sinh không thi đậu tú tài th́ tương lai ở chiến trừơng đang chờ các em đó.  Chính các em là nguồn căm hứng cho tôi thích nghề dạy học.  Chính các em cho tôi danh dự đựơc giảng dạy các em.  Chính các em cho tôi niềm kiêu hănh mỗi khi tự giới thiệu: “ Tôi từng đi dạy ở trừơng Quốc Gia Nghĩa Tử Sàig̣n kể từ lúc mới khai giảng năm 1963 cho tới năm 1967.  Tôi là Cô gíao dạy Vạn Vật cho nhiều học sinh thi Tú Tài I và II.  Và bây giờ có khá nhiều học sinh QGNT đă thành đạt trên đừơng công danh và sự nghiệp. Điều đáng tự hào là tôi đựơc dạy học sinh QGNT.  Đa số các em đă gựơng đứng dậy sau khi cha anh gục ngă.  Các em chập chững bứơc và học đi một ḿnh, không ngại chông gai, và tiến tới.  Thật đáng khâm phục.

Cùng với niềm tự hào của tất cả học sinh QGNT, tôi rất hănh diện là thành viên của trừơng Quốc Gia Nghĩa Tử năm xưa và bây giờ.

Cô gíao Vạn Vật Vơ Kim Sơn  

 

Xin Xem Tiếp Phần 2 : Các Sinh Hoạt QGNT 63-75