Trần Minh Chí 75
QUỐC vận bây giờ đã đảo điên
GIA đình bè bạn bước truân chuyên
NGHĨA tình năm tháng luôn ghi khắc
TỬ VẪN MONG CHỜ VẬN NƯỚC YÊN
Bằng Lăng
Thầy cô mở lối đưa đường
Bến đời dìu dắt tỏ tường đục trong
Năm mươi năm chẳng thay lòng
Ơn thầy cô tựa mênh mông biển trời
Bằng Lăng
Bạn bè nội trú muôn phương
Dẫu xa lòng vẫn nhớ thương đợi chờ
Còn đây lưu bút trang thơ
Lòng vương vấn thuở mộng mơ năm nào
Bằng Lăng
Còn trong tim tiếng trống trường
Cùng màu áo trắng rợp đường chiều bay
Xa nhau tháng rộng năm dài
Mừng ngày sum họp lòng say đắm lòng
Bằng Lăng
QUỐC GIA NGHĨA TỬ mừng HỘI NGỘ
Kết chặt thâm tình nối ước mơ
Những cánh chim Q từ muôn lối
Qui tụ tìm nhau một bến chờ
Bằng Lăng
50 năm tuy cũng thật lâu
Nhưng tình nghiã tử đâm sâu chẳng mờ.
Lê Minh Nguyệt
Công của thầy uốn rèn dạy dỗ
Ơn của cô khuyên bảo chỉ bày
Học trò có được hôm nay
Cũng nhờ công sức cô thầy mà nên
Lê Minh Nguyệt
Nắm tay xích lại thật gần
Quốc gia nghĩa tử tình thân một nhà
Lê Minh Nguyệt
Những ngày nội trú xa xưa
Ôn bao kỷ niệm cho vừa nhớ thương
Lê Minh Nguyệt
Phượng nào thắm đỏ mến thuơng
Quốc Gia Nghĩa Tử tên trường không quên
MP
Năm mươi năm những bóng xa rồi
còn được gì bên những nổi trôi
để nhớ về thời xưa ướm mộng
chỉ mong tìm lại tiếng cười thôi
MP
Tổng Hợp Kỹ Thuật hay Phổ Thông
đều cùng nhau góp sức tâm đồng
huớng về trường Quốc gia Nghĩa Tử
hạnh ngộ tao phùng những dòng sông
MP
Líu lo chim Quốc tiếng kêu đàn
quên những ngày ly biệt xốn xang
nghe thoáng vui về theo lá thắm
tình đồng môn vẫn mãi tràn lan
MP
Khi góc nhỏ không còn đâu chỗ đựng
Chợt nhớ hình như tim - có vách ngăn
Có lúc nào em nhìn vào ảnh cũ
Nghĩ ngày xưa chợt buông tiếng thở dài ...
Thầy với lớp - trường xưa - ơi bạn cũ
Hỏi bây giờ còn lại được những ai!?
Hải Âu
Chim Quốc khắp phương trời
Bay về cùng một nơi
Chung vui ngày hội ngộ
Tình mãi đầy không vơi
Phuong Hoang
Anh chị em mĩm cười
Gặp nhau lòng thêm tươi
Tình thân không phai nhạt
dù thời gian xa xôi
Phuong Hoang
Dù thời gian cách xa
Tuổi nay tuy đã già
năm mươi năm gặp lại
tình vẫn mãi thiết tha
Phuong Hoang
Năm mươi năm hợp tan ly biệt
Vẫn hướng về trường cũ lớp xưa
Giờ hội ngộ biết nói sao vừa
Mối tình thâm Quốc Gia Nghĩa Tử
Le van The
Tình Q thắm thiết đậm đà...
Vòng tay thân ái vui ngày đoàn viên
50 năm vượt khó truân chuyên
Ngày vui gặp gỡ như trên thiên đàng....
Minh Nguyen Hi hi
Mừng Hội Ngộ năm mươi năm sắp đến ,
Bao nghĩa tình chan chứa rộn ràng mong .
Từ Nội Trú, Kỹ Thuật hay Phổ Thông,
Quốc Gia Nghĩa Từ tâm đồng vun đắp.
Thu Tâm
50 năm trước cha vị quốc
38 năm sau con thành gia
Ai từng học trường nghĩa tử
Không quên ơn người lập ra
Minh Chí
Dẫu nay xa mái trường xưa
Tình thuơng Nghĩa Tử vẫn chưa phai mờ
ý lòng góp nhặt lời thơ
Thầy Cô bè bạn trông chờ đoàn viên
MP
Cuộc đời có trải bao dâu bể
TRI ÂN THẦY CÔ nhớ muôn đời
Khắc ghi tâm khảm VINH DANH MẸ
Thương lắm -vô cùng
QUỐC GIA NGHĨA TỬ của mình ơi
Phạm Vũ QH
Một chín sáu ba Trường khởi thủy.
Bão đỏ bẩy lăm tưởng cáo chung.
Ngờ đâu Nghĩa nặng Ân sâu.
Năm mươi năm vẫn đâu quên cội nguồn.
GQNT 1963-1975
Nam thanh
Q.G.N.T bạn mình ơi!
Đã năm mươi năm trôi qua rồi
Chúng ta còn được bao lần nhớ?
Quyết giữ nghĩa tình - nghĩa tử
Thanh Trước
tạ tình một thuở xa xưa
trường ta ngày đó ....nắng mưa bây giờ
tạ tình một thuở mộng mơ
bậc thang đến lớp nằm chờ chân ai ??
và một buổi soi gương nhìn theo tóc bạc
nhớ ngày qua...trường cũ...bạn bè...
nhớ Thầy Cô...bài giảng nào năm cũ
một đời qua...tình vẫn cứ tràn về....
TRUỜNG TÔI..................
Truờng tôi tên gọi đến dài ,
Quốc Gia Nghiã Tử thật là oai phong
Là con dũng tuớng Lạc Hồng ,
Xả thân máu đổ non sông điểm bồi ..
.....
Đời Cha đã vẹn chữ ngời ,
Đời con chăm học vâng lời hiếu câu .
Mẹ yêu lẻ bóng đêm thâu ,
Tơ hồng đoạn đứt bế bồng nuôi con
Lâu rồi còn thoảng huơng son ,
Khác gì Tô Thị chẳng sờn nắng mưa .
Về trong nhịp buớc ..duyên đưa ,
Muôn đời con trẻ như vưà mái chung
Truờng vang vang tiếng trống "thùng " ,
Thầy cô ngỡ tuởng như chừng Mẹ Cha
Cô xinh thanh giọng đậm đà ,
Thầy trông nghiêm khắc thế mà từ nhân .
Mái truờng chẳng chút dị phân ,
Phổ thông, Kỹ thuật ân cần đệ huynh
Còn muôn huơng lộng đóa Quỳnh ,
Trong nhà Nội trú những hình dáng thanh
Truờng tôi là cả mầu xanh .
Sân banh man mác cỏ hoa thắm tình
Chiều chiều gió tiếng gọi chiều
Chiều chiều mắt để muôn điều ý thơ
Chiều chiều khi lớn biết mơ
Vời theo áo trắng mái hờ thỏng vai .
Chiều xưa ai tóc xẻ hai
Nửa bâng khuâng để nửa vừa nhớ thuơng .
Truờng nay chỉ gió làn huơng
Bẩy lăm Xuân đã đoạn truờng bể dâu ,
Thầy cô trắng tóc mái đầu ,
Muôn phuơng ngõ lối về đâu bạn bè ,
Ve thôi hết ngẩn kêu Hè ,
Đuờng xưa Phuợng úa nhạt nhoè truờng qua ,
Bây giờ đã mấy thu xa ,
Nghe lòng rưng rức mắt buồn hạt rơi ,
Còn trong dạ để chẳng vơi ,
Hành lang ..sân cột gió khơi ngọn cờ ,
Còn trong trí nhớ chẳng mờ ,
Âm thanh môi mắt ngây thơ khoảng đời
Bây giờ xa quá khung trời
Đuờng đi vuơng vấn một thời khiết thanh .
Vần thơ lục bát buồn tanh
Truờng xưa nhớ quá rát lòng nguời ơi
....
Ầu ơ ..đỏ mặt môi cuời
Nôn nao bật thốt muôn lời hát ru
Truờng tôi dẫu đã tít mù
Trong ,ngoài đất khách đỏ bầu vú son
Ngàn năm - Huynh đệ mãi còn ,
Quốc Gia Nghiã Tử .vàng son vẳng đời .....
Vần thơ lục bát góp lời
Ru câu nguời nhớ khung trời Việt Nam ......
ks.....................................................
"trường tôi " ...hai từ nghe thương
" trường tôi "...hai chữ mãi vương trong lòng
bao năm cuộc thế xoay vần
nhưng hai chữ vẫn sáng ngần .." trường tôi "
........
tôi kể người nghe về .." trường tôi "
...có phaỉ đây , ngôi trường mồ côi
không đâu nhé . ... chúng tôi hãnh diện
ở nơi đây , con cuả những anh hùng ..
.........
Cha tôi vì nước đã hy sinh
Cha bạn vì nước thành phế binh
chúng ta , trụ cột nước nhà
xiết chặt tay thành " Quốc Gia Nghĩa Tử "
dẫu cuộc thế có xoay vòng lịch sử
chúng tôi luôn - giử thế ngẫng cao đầu
noí với ai tôi vẫn mãi tự hào
"trường tôi " đó
ngôi trường
dành cho
Nghĩa tử ...!
nnh
Nhớ Trường Xưa
Trường còn đó mà nay người đâu hết,
Nghĩa địa Tây buồn, cải mả chẳng còn ai;
Đối diện qua đường là Trại Chăn Nuôi
Cả heo bò, nay cũng đều vắng bóng;
Nơi cổng trường đâu còn ai trông ngóng;
Mỗi cuối tuần không cổng một, cũng cổng hai;
Chở nhau đi trên những đoạn đường dài,
Không qua Bảy Hiền cũng qua Lăng Cha Cả;
Nhớ lại khuôn viên Quốc Gia Nghiã Tử,
Shape chữ U với hai khúc ba lầu;
Nội trú chạy dài qua khu Kỹ Thuật ở phía sau,
Võ Tánh ngay mặt tiền bao giờ thấy lại;
Qua Bảy Hiền là đường Nguyễn Văn Thoại,
Võ Tánh nối dài chạy thẳng xuống Chi Lăng;
Sân Vận động Quân đội phải đi ngang,
Nơi anh em tới dợt chơi banh đá:
Những cặp giò huấn luyện bởi các chú:
Vinh sói đầu, với Đực Một, Đực Hai;
Mỗi lần dợt xong cùng nhau tới lai rai,
Bún thịt nướng trên đường Lê Văn Duyệt;
Hoặc “Cây Còn”, rựa mận ôi ngon tuyệt,
Rồi cà phê “Đức” đối diện trại Lê Văn Duyệt;
Mỗi cuối tuần, mấy thằng cùng tới để ngắm em,
Rồi lâu lâu rủ nhau tắm “pis sin” ;
Qua Đặng Đình Đáng để vào Đệ Nhất Khách Sạn.
Mỗi lần nghe chuông đổ là nhớ thầy Duyên Hạc, (1)
Đánh thức cuộc đời qua bình luận Việt văn,
Mỗi lần Tết, thượng sĩ Mách, đại úy Mười chạy lăng xăng;
Entertainment thì có thày Pháp văn Lý Thành Báu,
Tới chùa Chi Lăng mượn thêm quần áo;
Rồi múa lân, cùng ảo thuật với kịch thơ.
Nay còn đâu hăng hái của ngày xưa,
Chỉ còn là những nhớ nhung, kỷ niệm.
Ngồi buồn gác cẳng nghĩ vẩn vơ,
Bóng tối không gian xuống ơ thờ;
Tưởng lại trường xưa như giấc mộng,
Giật mình nuốt lệ, tỉnh cơn mơ.
Trần Tú (QGNT 68)
(1) Duyên Hạc Lê Thái Ất, Giáo Sư Việt Văn
Q uê hương xa cách ngàn trùng
U i chao, sao nhớ mái trường dấu yêu
Ô m trong lòng biết bao điều
C òn nguyên kỷ niệm những chiều thiết tha
G iờ đây dù đã cách xa
I n trong tâm tưởng loài hoa học trò
A i ơi trở lại bến đò
N hờ mang trao gửi điệu hò tiếng ca
G ia Đình Nghĩa Tử Quốc Gia
H ôm nay họp mặt bạn xa bạn gần
I êu thương trân quý ân cần
A nh em xum họp gieo vần mến thương
T hầy cô, bằng hữu, ngôi trường
Ư ơm mơ, dệt mộng mười phương một trời.
phạm văn đức QGNT73
1. Quyết giữ nghĩa tình đến trọn đời
Quốc Gia Nghĩa Tử khắp muôn nơi
Dù thay quốc tịch, thay màu tóc
Vạn tấc lòng son chẳng đổi dời
2. Thầy Cô tóc đã bạc như vôi
Trò cũng muối tiêu, nội ngoại rồi
Giầu nghèo, thành bại Trời Xanh định
Tình nghĩa keo sơn mặc nổi trôi
3. Trời đã quang rồi, bạn thân ơi
Sống trên đất mẹ hoặc quê người
Hướng về Hội Ngộ ôn kỷ niệm
Hâm nóng Tình đầy, Nghĩa chẳng vơi
Thầy Xuân Đạo
(Thân tặng Đức, Khánh, Nam Trần, Nam Trịnh
và các Q lớp 10B2 niên khóa 70 – 71)
Đã từ rất lâu, tôi không hề đụng tới viết lách văn thơ, vì chẳng còn hứng thú gì, và thêm nữa chuyện cơm áo đã choán hết thời gian. Cho đến một ngày cuối năm 2007, một cú phone của chú em tôi ở miền Tây Nam Bộ, vùng Cái Sắn gọi cho tôi: “Anh ơi! Có anh Nam bạn anh ở Mỹ về, nghe nói anh ở Cái Sắn nên đang trên đường về đây tìm anh”. Tôi hết sức bất ngờ và xúc động, vì sau thời gian dài 33 năm bạn bè còn nhớ đến tôi như vậy, qua tìm hiểu thì khi Nam về thăm quê hương nghe P.V.Đức( USA) nhắn: Anh P.V.Đệ( bạn đại diện, TK học tập NK 71 – 72) cho biết tôi đang ở Cái Sắn gần cơ quan anh Đệ làm việc (nhầm với chú em tôi, vì tôi đang ở Đồng Nai), do vậy Nam cất công xuống tận Cái Sắn tìm tôi, có rủ Lưu Nam Trang (Q73) đi cùng. Cuộc hội ngộ này hồi sau tôi sẽ kể, còn ngay khi biết Nam đã gặp tôi 2 “ông” P.V.Đức và Mai Viết Khánh đã email hỏi thăm tôi và cả tặng quà nữa, thật là cảm động!
Cũng từ khi gặp lại ông bạn quý sau hơn 33 năm tôi mới được tin về trường xưa lớp cũ, về các bạn Q, kẻ còn người mất, kẻ đang tha hương nơi đất khách, người còn ở lại, không ít người thành đạt, nhưng tất cả vẫn nhớ đến nhau, động viên nhau bằng tinh thần cũng như vật chất. Khi gặp lại tôi, Nam dắt tôi đi chơi một vòng lên khu đất Long Hải, qua Vũng Tàu và về lại Sài Gòn họp mặt một số Q73 ở nhà hàng Festival ( do Nam và một số Q tài trợ, có cả H.T Quan Thư) , một số Q75 ở hải ngoại về cũng được mời dự.
Trước đó tôi ít có dịp được về Sài Gòn, và có về cũng chỉ đi ngang qua trường, bạn bè thì lạc xứ xa miền hết, nên không hề biết một tin tức gì.
Gặp lại rất đông bạn cùng lớp 10B2 ngày nào. Giờ đều tuổi U60, có “cụ” đầu bạc trắng như tiên ông đó là Phạm Gia Long. Nắm tay nhau mừng rỡ; thật buồn nhớ về: Phạm Văn Quảng, Hoàng Xuân Sỹ, Đèo Văn Bắc đã đi về miền miên viễn xa xôi.
Vậy đó, mà đã hơn ba chục năm, gần hết đời người rồi. Biết bao nhiêu kỉ niệm của tuổi đôi mươi, cái tuổi đẹp nhất đời người cùng ùa về; bắt tay nhau cười vui mắt rơi lệ.
Tôi định bụng khi về đến nhà sẽ viết ngay một bài về những ngày xưa thân ái ấy, như một lời tâm sự với các bạn, một lời an ủi chính mình và chia sẻ với các bạn về “cái nghiệp” mà cụ Nguyễn Du đã viết:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa…”
phải, đã mang lấy kiếp người thì phải chấp nhận thôi không còn cách nào khác. Và như một lời tri ân cuộc đời đã cho tôi được gặp và biết tin về các bạn.
Nhưng khi về đến nhà thì công việc gia đình lôi cuốn, rồi bệnh tật, nên cứ lần nữa mãi, cho đến một buổi tối cách đây mấy tháng, ngồi coi TV kênh truyền hình cáp VTVC9, truyền hình trực tiếp liveshow ca nhạc của một nhà hàng khá nổi tiếng ở Sài Gòn, dạng như nhà hàng “Đêm mầu hồng” của gia đình họ Phạm ở Sài Gòn ngày xưa.
Sở dĩ tôi thích coi chương trình này một tuần một lần, vì những ca sĩ hay hát những bài ngày xưa của Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng… Bất ngờ, người dẫn chương trình giới thiệu một ca sĩ khá trẻ đẹp hát bài “Mười năm tình cũ”, lúc đầu vì không để ý nên tôi cũng không nhớ tên ca sĩ; nhưng tôi đoán đây là một Q hay một Fan biết tin tức rất rõ về TQN ( bài “Mười năm tình cũ” đã đi vào từng ngõ ngách quê hương Việt, tâm hồn Việt; một cô bé bán rau quê mùa ngồi cạnh hàng đậu hũ của vợ tôi, ngồi bán rau mà cũng ngâm nga: “Mười năm không gặp tưởng chừng như đã…”, nhà tôi hỏi thì cô cười bảo: “em thích bài này lắm!”. Làm tôi liên tưởng đến “Diễm xưa” của họ Trịnh một thời vang bóng.
Trước khi hát, nữ ca sĩ nói rất rành rẽ: “ Đây là sáng tác của nhạc sĩ Trần Quảng Nam, ngày xưa anh học trường QGNT- Sài Gòn, lúc đó anh đã có đến “hai” người con gái rất “lovely”, trở về quê hương sau mười năm xa cách, năm 1985 anh đã sáng tác bài này”.
Tôi ngồi lặng im nghe, đến lúc khán giả vỗ tay rào rào tán thưởng ca sĩ mới trình bày xong bài hát, tôi mới chợt tỉnh; trước đó tôi cũng đã mấy lần được nghe bài này một cách tình cờ, nhưng lần nào cũng có nguyên một cảm xúc lâng lâng một cách kỳ lạ như lạc vào cõi bồng lai tiên cảnh, nhưng chưa gặp tiên thì đã rơi trở lại cõi trần ôm hận…
Xin nói rõ thêm trước khi gặp lại TQN tôi còn chưa biết bài hát đó của ông bạn mình. Trước đó, đi dự một đám cưới vùng quê tôi, một ca sĩ cây nhà lá vườn lên hát bài “Mười năm tình cũ”, khán giả tán thưởng hết cỡ. Nếu biết tác giả là ông bạn mình chắc tôi cũng khoe nhặng mấy câu trong bàn để ké chút hãnh diện.
Tôi vào học QGNT khá muộn, niên khóa 71 – 72 lớp 10B2. Trong lớp các bạn đã vào trước tôi ít nhất cúng vài năm, lớp có nữ học chung. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là khá tự tin và đỡ tủi vì hầu hết các bạn đều cởi mở và thân thiện. Vì đồng cảnh ngộ, chỉ một số ít còn bố nhưng là thương binh nặng.
Viện giáo dục với một khuôn viên rộng rãi nằm cạnh phi trường Tân Sân Nhất chia ra nhiều khu - Khu trường THPT là hai dãy nhà 1trệt, 2lầu song song cặp theo đường Võ Tánh nối dài, bề thế và diễm lệ nhất so với các trường ở Sài Gòn thời bấy giờ.
Khoảng cách giữa hai dãy nhà là một sân cỏ rộng hình chữ nhật, được chăm sóc cẩn thận nên quanh năm xanh tốt, với cột cờ ở chính giữa dành cho những buổi chào cờ.
Một đầu của hai dãy nhà lầu đó được nối kết bởi một hành lang rộng rãi, mái đổ bêtông bằng phẳng, mở ra phía trên nữa là 3 dãy nhà trệt hình chữ U, kiểu Nhật Bản rất đẹp, nối kết với hành lang nói trên thành một hình vuông mà ở giữa là một hoa viên rất đẹp cũng kiểu Nhật dành cho : văn phòng Hiệu trưởng, giám học, giáo sư, giám thị, hiệu đoàn.
Đúng là công trình khép kín hoàn hảo. Bàn ghế của các lớp học đều cùng một kiểu, mỗi bàn dành cho hai người, bàn ghế nối liền nhau, chân bằng sắt bền, đẹp, nhẹ. Trường lớp ngày xưa đã ghi đậm dấu ấn trong tôi như vậy đó.
Tôi ngồi cạnh với Hoàng Xuân Sỹ gần cuối lớp, gọi là xóm nhà lá vì học loàng xoàng và hay nhảy cửa sổ chuồn ra ngoài đi chơi ( năm đó tôi học ở tầng trệt). Ngày đầu tiên Sỹ nhìn tôi, tôi nhìn Sỹ e dè. Sỹ một chàng trai cao to gần 1,8m hơn hẳn tôi một cái đầu đúng nghĩa, tóc dài tém như con gái, có thể cột túm lại thành một cái đuôi gà phía sau gáy, mặt nhiều mụn, nhìn rất ngầu, ít nói, hay chuồn đi chơi hơn học nên không ít lần tôi phải “gà” bài cho, hoàn cảnh nhà Sỹ cũng khó khăn nhưng đỡ hơn tôi vì còn bố, bố Sỹ cũng không làm được gì, chỉ ở nhà coi con cho mẹ Sỹ đi làm, nhà Sỹ đông anh em.
Sau ít ngày học chung, Sỹ rất quý tôi và ngược lại, hai đứa tôi sớm trở thành “cặp bài trùng” thằng cao thằng thấp trông thật ngộ nghĩnh, các bạn hay trêu Sỹ là chàng hộ vệ của tôi; ra ngoài chớ có “boy” nào dám đụng đến Sỹ, vì cái mặt ngầu đời của Sỹ “quặn” lên là hoảng liền, nhưng với tôi thì Sỹ hiền còn hơn con gái, Sỹ thường “rên” những bài hát sến hồi đó và cố bắt chước cho đúng cái giọng Chế Linh, Giang Tử; nhiều khi bực quá tôi có chửi thậm tệ thì Sỹ cũng chỉ cười hề hề… Kệ tao! ( ngay giây phút này tôi xin thắp nén hương lóng tưởng nhớ đến Sỹ, Quảng, Bắc; không biết bây giờ hương hồn các bạn đang bơ vơ chân trời nào?).
Cho đến bây giờ tôi cũng còn nhớ được khá nhiều tên các bạn trong lớp; ở xóm học giỏi có: Ninh Quốc Bảo, Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Tiến Nam, Quảng Nam, Viết Khánh (chàng này học giỏi, nhất là môn Anh Văn, hiền lành, chơi guitar solo rất hay, hòa nhã với bạn bè, ai cũng mến), Phạm Đức, Phạm Trung Thành.
Ở xóm khác, học giỏi nhưng trung lập : đầu tiên tôi nhớ là Phạm Văn Quảng ( chàng này cũng hiền và cởi mở, hiện tôi còn giữ được một tấm thiệp Noéll do Quảng tự vẽ và in nhân mùa Noéll 72 để tặng bạn bè. Kỳ thi Tú tài I, tôi và Quảng cùng thi ở trường Đạt Đức gần nhà Quảng.
Buổi trưa Quảng chở tôi về nhà nghỉ, bố Quảng rất hiền và quý bạn của con, cứ ngồi tiếp thức ăn cho tôi và Quảng), Thiết Thạch, Quang Tôn, Ngọc Lên, Phi Hùng, Văn Soái, Gia Long, Lê Dũng, Lê Văn Đức, Đức Dũng, Đèo Văn Bắc ( dân tộc Nùng), Điệp, Văn Hinh ( trắng trẻo như con gái), Phạm Oanh, Trần Minh, Tăng L Công, Lã Văn Hồng, Trần Anh Dũng, Nguyễn Trung Vinh.
Công tử nhà giàu có Hoàng Ngọc Phát, Trịnh Hoài Nam, Nguyễn Hoàng Hưng, Đỗ Hùng Sơn…
Các bạn nữ tôi cũng nhớ tên được mấy người: đầu tiên là Hoàng Thì Quan Thư ( vì cái tên nghe rất ấn tượng, người lại nhỏ nhắn, xinh xắn như búp bê), Trần Thị Tuyết ( chị Trần Anh Dũng, khi gặp bạn bè biết Tuyết chết thảm sau 30-4), Trần Thị Minh Tâm, Vi Thị Phượng…
Sau mấy ngày học là việc bầu các ban bệ trong lớp, tôi nhớ hình như Sỹ giơ tay đề cử tôi làm báo chí, các bạn trong lớp thấy tôi là lạ nên giơ tay tán thành rất đông, Quảng Nam ban văn nghệ, Đức Dũng thể thao, Phạm Trung Thành học tập. Và trưởng lớp là Phạm Văn Đức. Mối duyên tình của tôi và bạn bè bắt đầu từ đây, chia sẻ với nhau những vui buồn, cả những điếu thuốc, ly cafe sữa hoặc ổ bánh mỳ…
Phạm Văn Đức người tầm thước, râu hùm, hàm én (hồi đó rất nhiều cô mê) ăn nói chững chạc rất xứng với vai thủ lĩnh, hiền lành và tốt bụng, cũng có đá chút hài hước, đúng như văn phong của Đức: lạnh lùng pha chút khinh bạc. Trần Quảng Nam hiền hòa, lãng mạn, nhưng cũng không thiếu sôi nổi. Dịp cuối năm các trường công lập lớn thường có tổ chức làm báo xuân.
Cuối năm 70 đó, lớp 10B2 của tôi cũng trình làng một tập san hẳn hoi, tôi nhớ số báo in ra trên 100 quyển, in ronéo trên giấy trắng mịn, dày hơn 30 trang khổ lớn, thực ra văn chương còn ngô nghê lắm, nhưng đó là điều “vô tiền khoáng hậu” ở trong trường, vì chưa có lớp nào làm được.
Sở dĩ có được tập báo đó, đầu tiên là các bạn trong lớp đóng góp bài vở, nhất là tiền bạc, các thầy cô cũng giúp cho một ít tài chánh, như thầy Trương Thế Khôi, Nguyễn Đôn Phong và một vài thầy cô nữa mà tôi quên mất tên, các công tử nhà giàu cũng rất hào phóng giúp đỡ, nhất là : Trịnh Hoài Nam, Hoàng Hưng và Đỗ Hùng Sơn. Còn Trần Quảng Nam thì đứng đầu bảng rồi: từ việc thuyết phục tôi mạnh dạn làm báo đến việc mượn xe chở tôi đi tới đi lui nhà in để đặt in, rồi thiếu tiền, rồi lại về lớp xin, riêng Nam có được đồng nào dành dụm, có khi nhịn cả ăn sáng đưa cho tôi, và những lúc tôi chán nản Nam lại động viên tôi. Nam kiêm luôn vẽ bìa, vẽ minh họa, tiêu đề, rồi dịch một số “nụ cười nước ngoài” để điểm xuyến cho tờ báo đỡ “khô”.
Nói tóm lại ngoài một vài bài của tôi, một bài của Đức, Mai Viết Khánh có bài dịch truyện ngắn từ tiếng Anh, một số bài thơ lục bát khá hay của Ngọc Thanh, một số bài của các bạn khác còn bao nhiêu là bài của TQN, hình như có cả một bản nhạc nữa. Công việc của tôi còn phải làm là biên tập lại các bài vở và đưa in. Có một chi tiết khá thú vị, ở trang bìa Nam viết: “Nhóm trẻ 10B2: Nguyễn Nghinh, Viết Khánh, Quảng Nam…” Đến lúc đưa tặng cho thầy Khôi một quyển, thầy coi trang bìa xong, lật lật vài trang rồi coi lại trang bìa, cười cười phán: “Mấy thằng này, không trẻ thì già với ai!”. Cả lớp phá ra cười…
Khi báo in xong, một buổi sáng trước giờ học, tôi đưa báo phát tặng mỗi bạn trong lớp một quyển, đang khi đó chuông báo vào học. Cô Bảo Ngọc vào lớp, cô dạy tiếng Pháp ( sinh ngữ phụ) nhưng là giáo viên chủ nhiệm, rất nghiêm túc. Tôi đưa lên tặng cô một quyển, nhưng cô rất giận dữ, quát hỏi: “Ai cho phép làm?”. Và bắt thu hồi lại toàn bộ, giống như phạm phải một điều gì đó động trời. Lúc đó mặt tôi tái mét và bắt đầu run. Cô bắt tôi, Đức, Nam ôm toàn bộ số báo lên phòng hiệu đoàn. Nam vẫn bình tĩnh nói với tôi: “Mày đừng sợ, nếu có chuyện gì tao sẽ nhận hết cho!”.
Và vài ngày sau, khi đã kiểm duyệt xong, thầy Huỳnh Văn Ân, hiệu đoàn trưởng gọi chúng tôi lên cảnh cáo một hồi, viết cam kết không tái phạm rồi cho nhận lại số báo. Thật là hú vía, từ đó tôi càng quý mến và nể phục TQN, một con người như vậy đó, hết mình với bạn bè, đã quyết tâm làm điều gì mà thấy rằng chính đáng thì sẽ theo tới cùng “uy vũ bất năng khuất”.
Năm sau chúng tôi lên 11B2 niên khóa 71 – 72 , có thêm một kỉ niệm nữa. Mùa bầu cử năm đó để tranh cử vào Ban Đại Diện trường, có một liên danh( mỗi liên danh 2 người) của khối lớp 11, tranh cử với một liên danh khối lớp 12. Thường những năm trước đó, chỉ có khối lớp 12 ra tranh bầu cử vào BĐD. Liên danh 11 mà tôi nói ở trên gồm có Phạm Văn Đức và Trần Dũng Tiến, Tiến cũng học chung 11 nhưng lớp khác (sau này làm việc với nhau ở phòng hiệu đoàn, tôi mới biết Dũng Tiến hoạt động rất hăng say và học cũng rất giỏi, ở phòng hiệu đoàn mà lúc nào cũng khư khư quyển sách học với cây viết chì trong tay). Tôi cũng có theo Đức đi vận động tranh cử một vài buổi ở các lớp buổi chiều. Kết quả, liên danh 11 thắng cử. Hai người trong liên danh thắng cử Đức – Tiến sẽ đề cử nhân sự phụ trách các khối với sự chấp thuận của phòng hiệu đoàn: Nguyễn Hoàng - tổng thư kí, Tôi - khối báo chí, Quảng Nam - khối văn nghệ. Có hai anh lớp 12 cũng tham gia vào BĐD : anh Đệ- khối học tập, anh Việt- khối trật tự.
Năm đó BĐD hoạt động rất sôi nổi. Khối văn nghệ của Nam có thành lập ban văn nghệ, lên đài truyền hình thi với các trường lớn ở Sài Gòn và cũng có giải thưởng. Sau đó Nam thành lập nhóm du ca.
Khối báo chí cũng ra báo Xuân, và đặc biệt năm đó BĐD được duyệt bài, cùng với các thầy phụ trách mảng báo chí. Bài vở khá phong phú đặc sắc trong đó BĐD viết một bài: cảm nhận về mùa xuân( mỗi người một bài, nhưng chung chủ đề, mỗi người một ý tưởng, rất đa dạng như một bức tranh đa màu sắc, tôi nhớ ai cũng viết: Phạm Đức, Đào Thị Lương, Quảng Nam, Thuận Châu, Minh Nguyệt…), được các bạn rất hoan nghênh. Làm báo năm đó tôi cũng không quên được Ngô Thanh Tùng (Q73), bây giờ là họa sĩ. Tùng vẽ rất đẹp, viết tựa đề, vẽ minh họa, vẽ quảng cáo và rất nhiệt tình.
Năm 72 – 73, Nguyễn Trung Vinh, Nguyễn Tri Phương làm Ban Đại Diện, Vinh có mời tôi vào khối báo chí, nhưng thấy lạc lõng quá nên tôi không nhận.
Trở lại cuộc gặp mặt của tôi và TQN cuối tháng 11 năm 2007 đó, thật là hạnh phúc, trước đó Nam về Cái Sắn gặp anh Đệ, gặp chú em tôi, thăm mẹ tôi( mẹ tôi ở với chú em), sau đó Nam về Sài Gòn, trên đường đi ra khu đất của Nam ở Long Hải, Nam có ghé nhà tôi, đi với Nam có Hoàng Ngọc Phát và Đỗ Ngọc Anh, Ngọc Anh tôi có biết, hồi đó Anh học lớp 10B1 cạnh lớp tôi, Anh rất tốt vì sau này Anh là cầu nối giữa tôi với các bạn Q. TQN vẫn như ngày nào, sôi nổi và nhiệt tình với bạn bè. Khi về thăm mẹ tôi, Nam có quà cho mẹ tôi rất chu đáo và vận động ngày “Vinh Danh Mẹ”,
Mẹ tôi nhận được một món quà nữa của các anh chị em Q, Mẹ tôi rất vui và luôn nhắc về Nam, tôi rung động tận đáy lòng và vô cùng cảm kích ông bạn, đây cũng là quà mừng tuổi mẹ lần cuối cùng, vì sau đó mấy tháng Mẹ tôi bỏ anh em tôi ra đi mãi mãi…
Năm 2008, vợ chồng cô Dung, em gái của TQN định cư ở Úc, về thăm quê hương; chắc là có sự giới thiệu của TQN, cô Dung có gọi điện thoại hỏi thăm tôi. Và qua Đỗ Ngọc Anh cô có tặng cho tôi một chút ít tiền để làm ăn, tôi xin chân thành đa tạ cô Dung. Tôi viết bài này vào đúng mùa Vu Lan, tháng 7 mưa ngâu, đêm nào trời cũng rả rích mưa; không còn gì buồn hơn là nằm thao thức nghe mưa với những hoài niệm da diết, mênh mang…
Nguyễn Nghinh