Đỉnh
trăng muà thu
Trời hơi ngả bóng khi Lê và Ngọc đến sòng bài Pala gần chân núi.
Đang tần-ngần, chưa biết chạy xe về hướng nào thì mấy tiếng còi .
.toe . .toe . . . đã vang lên. Từ xa, Tư thò tay ra ngoắc lia lịa
phía chiếc Jeep đậu sát cổng. Lê đảo xe một vòng tới bên cạnh. Tư
chờ sẵn bước tới tay bắt, mặt mừng :
- Ê . . Lê . . Ngọc . .mạnh giỏi ? Kẹt xe dữ không ? Tưởng tụi mày
lại kiếm cớ từ-chối không tới được !? Giọng Tư vui rân ran.
- Để mày “hạ-sơn” đón tiếp mà đến trễ tao ngại qúa. Không biết hôm
nay sao đường kẹt xe ghê. Bà xã đâu ? Lê ngại-ngùng hỏi.
- Đợi chút xíu ăn nhằm gì. Cà-pha sơn-nữ đang lo trổ tài nấu cơm
đãi khách trên bản. Thôi, bây giờ mày để xe đây đi. Dân cờ bịch
đánh bài 24 trên 24, có người gác thường-trực không sao đâu. Sang
đi Jeep tao chở lên núi cho tiện, lúc về tao đưa xuống. Đồ-đạc
trên tao đầy đủ, mày không cần đem theo gì hết.
Lê xách hai túi đồ cá-nhân từ xe mình bỏ sang xe Tư. Anh quay lại
bê thêm hai túi da đen, dài đã bạc màu từ thùng xe.
- Vẫn súng trường cũ hả ? Tư hỏi.
- Không, khẩu Carbine M-1 để bắn nai, mua rẻ từ tiệm cầm đồ năm
ngoái. Tao rất thích loại này từ hồi đi lính ở VN vì nó gọn và nhẹ,
hợp với tầm vóc nhỏ nhắn của người mình. Còn cái kia là súng
trường Winchester 22 ly để bắn thỏ, chim, gà rừng . . .
- Rồi chưa ? Mình đi ngay, trước khi trời tối.
Cả bốn người lên chiếc xe Jeep xanh cũ mèm, móp đầu, móp đuôi đầy
bụi. Tư và Lê cùng là bạn học cùng lớp ở Q, ngôi trường
khang-trang, đẹp nhất Sài-gòn, gần ngã tư Bảy Hiền từ hồi
trung-học đệ nhị cấp. Sang Mỹ, Lê và vợ là Ngọc trôi dạt đến
Riverside và vẫn đi làm dù tuổi đã gần 60 chục. Tư thích đời sống
thiên-nhiên. Anh về hưu non với tiền bạc vá-víu qua ngày. Hồi con
cái còn nhỏ, gia-đình Tư hay đi cắm trại khắp các lâm-viên lớn,
nhỏ trên núi, trong rừng, cạnh sông, ngoài biển . . . Bây giờ, Tư
và Hiền tình-nguyện làm phụ-tá cho park ranger trong trại trên núi
Palomar. Kiểm-lâm của nhà nước không đủ người coi sóc, điều-hành
các khu cắm trại, công-viên, lâm-viên rộng bao-la, bát-ngát. Họ
nhờ các phụ-tá tình-nguyện như Tư phụ-giúp, trông nom, dọn dẹp,
tu-sửa trong trại chừng 3, 4 tiếng mỗi ngày. Đổi lại, những người
tình-nguyện này được đậu motor home, camper. . . miễn phí, ưu-đãi
với chỗ tốt trong trại. Thời gian còn lại, hai vợ chồng tiêu-khiển
bằng sách, báo, đánh cờ, nghe nhạc hay đi thăm những thắng cảnh
trên núi và vùng phụ-cận. Cứ vài tuần lại xuống phố mượn, trả sách
và mua sắm đồ-đạc cần-thiết. Tương-đối cuộc sống thật khiêm-nhường,
an-nhàn, dễ chịu vì đúng sở-thích gần-gũi thiên-nhiên và đỡ tốn
kém. Hàng năm, hai cặp vợ chồng Lê và Tư gặp nhau vài lần để săn
thú rừng tùy theo mùa nha kiểm-lâm cấp tiểu-bang cho phép. Năm nay
Lê dự-định về VN ăn Tết cuối năm nên cả hai hẹn nhau đi săn sớm
hơn vào giữa tháng 9.
Qua khỏi khu La Jolla Indian Reservation của dân da đỏ, đường bắt
đầu lên dốc và ngoằn-ngoèo khó đi. Những cây thông thẳng tắp, vươn
trên sườn núi với cành lá đan sát vào nhau đẹp như trong tranh.
Vách núi có chỗ đầy những đá nâu, xanh lởm-chởm, ghê rợn. Có nơi
đất đã lở mất, để lộ ra các thân cây xồi ngổn-ngang, những gốc
thông già trơ-trẽn. Đôi khi đường cheo-leo một bên là vách núi
dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm rợn người, tưởng chừng xe
có thể lao xuống bất cứ lúc nào nếu lạc tay bánh. Nhiều chỗ để
bảng mang dấu hiệu con nai với hàng chữ deer-xing, báo hiệu xe cộ
phải coi-chừng nai băng ngang !
Độ hơn nửa giờ sau, xe lên đến đỉnh núi. Trời cuối hè vẫn còn sáng.
Hai bên đường là những rừng thông ngút ngàn. Không-khí mát-mẻ, đầy
mùi thơm sảng-khoái của nhựa và lá thông tỏa ra. Đài viễn-vọng
kính Hale vĩ-đại với vòm tròn ngạo-nghễ vươn cao từ xa. Xe quẹo
trái về hướng rừng. Một lúc sau lại rẽ mặt vào khu cắm trại. Đến
cạnh một trạm kiểm-soát nhỏ làm bằng gỗ với mái cây nâu, Tư cho xe
ngừng lại rồi quay cửa kiếng xuống chào người kiểm-lâm Mỹ đang
ngồi trực :
- Hi John, có gì lạ không ?
- Hello Tu . . . xuống núi đánh bài được hay thua ?
- Không, đánh đấm quái gì, chỉ đón bạn lên chơi thôi. Lê, Ngọc . .
. đây là John, hì . .hì. .cùng làm nghề “tiều-phu” với tớ trên núi
! Gặp sau nghe.
- Hi and bye.
Lê, Ngọc cười, dơ tay chào xã-giao. Xe bắt đầu chạy trên đường đất
vào trại. Dọc bên đường, vài căn lều lớn, nhỏ trong các gò cao,
góc kín ngang dọc của người đi cắm trại dựng rải-rác. Xe cộ đủ
loại đậu lung-tung, cao, thấp, dưới đám cây cối hay sát bụi rậm.
- Tháng 9 hết hè, trại bắt đầu thưa người vì học-trò bắt đầu vô
học rồi. Tư cắt nghĩa thêm.
Chiếc Jeep quẹo vô một bãi đất trống rồi ngừng lại bên chiếc motor
home cũ, cỡ trung-bình. Một làn bụi mỏng bay lên và tiếng của Hiền,
vợ Tư vừa bước ra từ phía sau, vừa nói :
- Trời ơi ! Đường đất, chạy xe chậm chậm thôi, bụi lắm ông nội !
Chào anh Lê, chào Ngọc mới lên chơi.
- Chào chị Hiền. Mùi đồ ăn thơm qúa. Nấu gì vậy ? Lê hỉn hỉn cánh
mũi như đánh hơi theo làn gió.
- Đây là Cà-pha sơn-nữ ! Hôm nào cả hai đứa đeo gù trên lưng nữa
là thành Mọi Ra-đê chính-gốc. Tư pha trò.
- Anh chị thấy từ hồi dọn lên núi, ổng cứ chọc tôi là đồng-bào
Thượng hay cô em xứ Mọi hoài ! Mệt không ông bà ? Tới đúng giờ cơm.
Cất đồ, rửa mặt rồi ăn chén cơm sơn dã với tụi này.
Lê, Ngọc lấy đồ đưa lên xe motor home. Đây là nơi ăn, ở của Tư và
Hiền với đầy đủ tiện-nghi tối-thiểu như bếp núc, bàn ghế, phòng
tắm và chỗ ngủ cho 5, 6 người. Ngọc cầm một bao giấy lớn đặt trên
bàn :
- Tối nay là đúng rằm Trung-thu đó ! Thân tặng ông bà ba hộp bánh,
hai thập-cẩm hột vịt, một nhân hạt sen !
- Ủa . . .tới Trung-thu rồi hả ? Mình ở trên rừng lâu qúa quên mất
ngày tháng Âm-lịch. Tư phân-trần.
- Qúa đẹp, qúa đẹp ! Cám ơn anh chị. Ăn xong mình ngắm trăng và
thưởng-thức bánh Trung-thu được rồi. Vậy mình ăn cơm lẹ lên đi để
dọn chỗ. Hiền vừa nói vừa mở hai hộp bánh ra xem.
- Tôi có ý-kiến này. Bây giờ gần 5 giờ chiều. Ăn xong mình đi moon
crest ngắm trăng, ăn bánh Trung-Thu, uống trà, nói dóc thì còn gì
bằng nữa ! Tư hớn hở đề-nghị.
- O.k tùy-ý gia-chủ.
Một dĩa bò xào lăn, heo kho đã bày sẵn cùng tô canh cải xanh. Bia
và nước ngọt lạnh khui sẵn. Tất cả ngồi xuống bắt đầu ăn uống và
nói chuyện rân-ran. Xong bữa, dọn-dẹp và chuyện-trò thân-mật khá
lâu, bốn người lấy áo lạnh rồi lên xe Jeep. Hiền và Ngọc cầm theo
bánh Trung-Thu và hai bình-thủy trà và cà-phê. Lê vớ lấy khẩu Cạc-bin
và hai băng đạn. Tư nhìn bạn, vẻ ngần-ngừ như định nói điều gì rồi
lại thôi. Anh cho xe ra khỏi cổng chạy về hướng đông :
- Mình đi đường tắt này cho lẹ nên hơi xóc nghe.
- Từ từ thôi không mọi người lại ói hết ra đó. Hiền nhắc chồng.
Đường đất gập-ghềnh, ngoằn-ngoèo. Tiếng bánh xe nghiến rào rạo
trên lá khô và cành cây nhỏ, vụn ngổn-ngang. Chừng hơn 20 phút
lách qua, lại trong đám rừng chi-chít, xe ngừng gần một góc đồi đá
bằng-phẳng nhỏ, nằm ẩn mình sau những lùm cây dầy đặc.
- Chỗ này nhỏ nhưng cảnh vật đẹp và hữu-tình qúa. Lê buột miệng
khen.
- Đây là Moon crest, đỉnh trăng. Tụi này gọi là Thạch-nguyệt-đài.
Nó nằm xa và kín-đáo sau rừng cây rậm-rạp nên chỉ dân kiểm-lâm,
thổ-công biết đường mới mò tới ! Giọng Tư hãnh-diện .
- Nhìn sang bên kia là chỗ gì vậy ? Ngọc hỏi.
- Đồi nai đó, dưới chân là vực núi bọc lại như móng ngựa, không ai
qua được vì điạ-hình cây, đá lởm-chởm dựng đứng. Bên kia chỉ cách
bên này chừng hai, ba trăm thước, nai thường về tụ-tập, nhưng
không ai bắn được.
- Gần như vậy, sao lại không ai bắn được ? Lê thắc-mắc.
- Hai, ba trăm thước, bắn trúng nai thật dễ-dàng. Nhưng không ai
nghĩ có thể vượt qua vực sâu này để mang nai lên đưọc trên này,
trừ khi bốc bằng máy bay trực-thăng ! Tư thở dài đầy tiếc nuối.
- Tốt, như vậy không ai hại mấy con nai dễ-thương, đáng yêu như
Bambi được. Hiền reo lên đắc-ý.
Hiền đem tấm bạt lớn trải ra trên một tảng đá. Nàng ngồi xuống cắt
bánh ra để trên dĩa giấy cạnh bình trà và cà-phê trong lúc Lê và
Ngọc đi loanh-quanh thám-hiểm trong, ngoài đỉnh trăng.
Mặt trời đã lặn từ lúc nào phía sau rừng thông. Nhưng như bù lại,
trăng rằm Trung-Thu đã lờ lững lên cao thế chỗ. Cảnh vật, đất trời
bỗng dịu lại bằng thứ ánh-sáng lung-linh, huyền-ảo. Trăng tỏa khắp
trên núi rừng như một giải lụa vàng kiêu-sa, ma-quái. Từ đỉnh núi
thật cao, chị Hằng trông tròn trịa, to lớn dị-thường và đong-đưa
trước mặt người yêu trăng như bỡn-cợt.
- Đã qúa, đêm Trung-Thu ngắm trăng, nhâm-nhi trà nóng với bánh
ngọt trên núi cao thế này thì còn gì bằng. Lê vừa khen, vừa chiêu
một ngụm trà sen thơm ngát.
- Ngày xưa còn nhỏ mình chỉ nô-nức được đi rước đèn, chơi đèn đâu
có thì giờ ngắm trăng. Bây giờ lớn tuổi ngồi nhìn trăng, lại nhìn
từ đỉnh núi mới thấm-thía và đắc-ý hơn. Tư phụ-họa.
- Ô . . . có nai ra kìa anh ! Giọng Hiền la lên nho nhỏ, như sợ la
lớn chúng sẽ chạy mất.
- Ừ hai con, rồi ba con ra đứng ngẩn-ngơ rồi dạo lang-thang dưới
khu đồi nai nè. Ngọc phụ-hoạ.
- Tưởng về đêm nai đi ngủ mất rồi, sao lại lang-thang thế này ? Lê
hỏi.
- Nghe nói, theo mấy ông nghiên-cứu, nai cũng thích trăng, mê
trăng lắm. Đêm trăng tròn, chúng cũng bị ánh trăng huyền-hoặc
thôi-miên còn hơn loài người.
- Tao đem theo cây Cạc-bin, để độp nó cái nghe. Lê hối-hả định
đứng lên.
- Nẫy . . . thấy mày xách súng theo tao ngại quá không muốn cản.
Theo luật săn-bắn ở Cali, mùa săn nai chỉ bắt đầu từ cuối tháng
10. Bây giờ Trung-Thu , mới tháng 9, sớm qúa không được. Nếu có
bắn ẩu thì cũng không sao vượt qua nổi cái vực này để lượm xác về
đây. Luật chỉ cho săn ban ngày , cấm săn ban đêm tối-tăm sợ thợ
săn có thể bị tai-nạn từ chết tới bị thương vì dễ lọt hầm, té hố
trong rừng, núi . . .không ai cứu kịp ! Thêm nữa, săn ban đêm phải
xài đèn bin mạnh mới thấy đường. Nai thấy đèn bin chiếu sẽ bị
thôi-miên vì ánh-sáng, lo nhìn đèn không bỏ chạy, đâm ra hơi bất
công và tàn-nhẫn qúa !
- Tội chết, heo, bò, gà thiếu gì mà cứ đòi bắn nai cái ông này.
Hiền trách nhẹ.
- Thôi săn không được đâu anh, để thưởng-thức Trung-Thu đi. Ngọc
phụ-hoạ theo.
- Ừ. . thì đành vậy. Lê thở hắt ra một hơi dài tiếc nuối.
- Để mai mình đi bắn chim rừng, gà tây vậy, o.k ? Tư trấn-an bạn.
Cảnh vật về đêm im-lìm. tịch-mịch. Gió đầu thu mơn-man, lay-động
cả cánh rừng. Không-gian se nhè-nhẹ trong hơi lạnh. Sương bắt đầu
xuống. Ngọc ngồi xuống sát vào Lê tìm hơi ấm. Tư cũng choàng tay
xoa nhẹ lên vai Hiền. Trên cao, bầu trời xanh nhạt, mờ mờ. Trăng
rằm tròn-trịa đã leo lên tận đỉnh núi. Ánh-sáng vằng-vặc tỏa xuống
chan-hoà khắp nơi. Dưới đồi nhỏ, đàn nai vẫn ngơ-ngẩn, lang-thang
qua lại dưới trăng như mất hồn.
Q nhà lá vườn
NGÀY RẰM SINH NHẬT
MẸ
Ngày RẰM THÁNG TÁM tới đây,
Mừng SINH NHẬT MẸ vui vầy hát ca.
Trong nhà đủ loại bánh thơm,
trà ngon tiệc rượu mâm cơm đậm đà.
Trên trời TRĂNG mỉm nụ cười,
TRĂNG lên cao tít mọi người ngắm xem.
MỪNG SINH NHẬT MẸ TÁM MƯƠI,
bao nhiêu tuổi thọ bấy mươi tuổi mừng.
Cả nhà vui vẻ rượu tàn,
dường như ai nấy mơ màng tỉnh say.
MỘT, HAI KHÁCH QUÝ tới nhà,
CÂY ĐA CHÚ CUỘI, HẰNG NGA NGÀY RẰM.
Chị HẰNG san sẻ tuổi đời,
chiếu vào nhà MẸ sáng ngời TRÒN TRĂNG.
Chia vui khúc nhạc NGHÊ THƯỜNG,
TRĂNG quay nhảy múa điệu đường Thần Tiên.
CHÚ CUỘI ôm một CÂY ĐA,
CUỘI vui CUỘI kể việc nhà CUNG TRĂNG.
............ ......... ......... ......... ......... ......
Tình người mới biết giấc mơ,
NGÀY SINH NHẬT MẸ mộng mơ trở về.
Trẻ con ca hát tưng bừng,
lồng đèn hiện đại vui mừng đón TRĂNG.
Chúc cho Mẹ được sống lâu,
SINH NHẬT HẠNH PHÚC muôn câu vẹn toàn.
Trần Ý Thu
CHÚ CUỘI VỚI CÂY ĐA
VÀ HẰNG NGA
CHÚ CUỘI xuống trần gian,
đong đưa một CÂY ĐA.
CHÚ thở dài mệt mỏi,
hạ giới thật là xa.
Kẹt là Chị HẰNG NGA,
cứ cản đầu cản mũi,
làm CUỘI đây nhức đầu.
Cũng may gặp THI SĨ,
cho vài vần ấm lạnh,
thoát qua cơn ngặt nghèo.
CUỘI trầm ngâm nghĩ ngợi:
CÂY ĐA để trước cửa,
lại không cánh mà bay.
Làm sao về thượng giới,
người trần nhiều đắng cay.
HẰNG NGA đẩy cửa vào,
trả lại CUỘI CÂY ĐA.
Hai bên bèn giao ước,
ở NHÀ THƠ mừng RẰM,
ngày TRUNG THU tốt dẹp.
TRĂNG TRÒN chiếu sáng chói,
đến CHÚ CUỘI, HẰNG NGA.
Cả hai chợt bay bổng,
đi ra khỏi giấc mơ,
của NHÀ THƠ mộng mơ.
Hẹn năm sau gặp lại,
MÙA TRUNG THU NGÀY RẰM.
Tác giả: Trần Y Thu
viết ngày 21/9/2007
Tết Trung-Thu rước đèn
đi . . . nhậu
nvd67
Buổi chiều xuống dần.
Sau bữa cơm có chút rượu, gã bắt đầu ngà ngà hơi men, chân nam đá
chân siêu. Gã quơ lấy chai rượu vang khác, tay kia cầm hộp bánh
nướng thập-cẩm hột-vịt bước ra vườn sau để thưởng-thức và ngắm
trăng.
Đã mấy mùa nho xanh,
nho đỏ thay lá kể từ ngày gia-đình gã trôi dạt về đây. Vùng
Temecula ở nam Cali này gần sa-mạc nên nhà cửa khá rẻ so với các
nơi khác. Gần khu trồng nho quê-mùa như trong ruộng, trong bưng,
lại còn rẻ thêm chút nữa. Đó là lý-do chính khiến gã cắm dùi ở
dưới chân đồi nho này . Bù lại cảnh vật cũng rất nên thơ khi đứng
sau nhà nhìn xuống những đồi nho chập-chùng, bát-ngát , hưởng ké
cái cảm-tưởng an-ủi giả-tạo như đang ở giữa Bordeaux bên Tây hay
thung-lũng Napa thơ-mộng không bằng.
“Bà xã và con gái đi ăn
cưới đứa cháu bên ngoại ở tận Canada. Bạn Q, bạn lính, bạn nhậu .
. . ở qúa xa và bận-rộn, chẳng có tên nào mò được tới cái chỗ khỉ
ho, cò gáy, tận đáy sa-mạc này để cùng ta thưởng trăng.” Gã tự bảo
thầm.
” Thôi thì ta độc-ẩm
với trăng vậy. Biết đâu một lát khi khuya hẳn, chị Hằng không bước
ra khỏi cung Quảng xuống đây nhập cuộc ! Hà. . hà. . . Ta sẽ giữ
chị lại để cùng uống rượu, ăn bánh và ngâm thơ . Dzô đi, đừng chờ
ai nữa ” Gã bỏ miếng bánh thơm phức vô miệng . Bánh ngọt lại có
nhân hột vịt cộng đủ các thứ hột thập-cẩm khác trộn chung làm
miệng, lưỡi gã như sựng lại để phân-chất cái hương-vị sao lạ-lùng,
hổ lốn như vậy. Rồi nhìn trăng, gã cạn thêm ly nữa. Đặt ly xuống
bàn, gã ngửa mặt và dang tay rộng ra như muốn hít hết những hương
đồng, cỏ nội thơm-tho, mát-mẻ đang chan-hoà khắp nơi vào buồng
phổi .
Đêm nay đúng 15. Trăng
thật to, thật tròn và đẹp, treo lơ-lửng trên đồi, soi tỏ cả những
giây nho quấn chằng-chịt trên dãy rào cây dựng cách nhau đều-đặn,
chìm khuất tầm mắt.
Ánh trăng như một tấm
lụa vàng óng-ánh , huyền-hoặc và ma-quái trải rộng trên khắp đồi
nương tới cuối chân trời . Không-gian tĩnh lặng, hoang-vắng,
thỉnh-thoảng lưa-thưa vọng lại tiếng côn-trùng kêu than rỉ-rả .
Vài con sóc lang-thang sục-sạo ăn đêm, lúc ngừng, lúc chạy
loạt-xoạt nhanh như biến.
Tuổi đời sáu bó, gã đã
từng bao lần thưởng trăng Trung-thu trên biển vắng mênh-mông,
bập-bềnh nơi sông nước lững-lờ , cạnh mé rừng hiu-quạnh, bên ruộng
đồng lúa chín thơm lừng hay lấp-ló sau rặng tre già quê-hương
yêu-dấu. Và hôm nay thật là mãn-nguyện lại được cái thú nhâm-nhi
rượu vang, thưởng trăng bên đồi nho nơi xứ lạ, quê người.
Gã rót thêm cái chất
lỏng màu đỏ đậm vào ly. Cầm lên, lắc lắc nhẹ rồi đưa lên mũi
thoáng ngửi . Hương nho dìu dịu thoảng ra thơm ngào-ngạt. Chiêu
một ngụm nhỏ nhẹ-nhàng, chờ rượu thấm lan-man, tan dần trên môi,
lưỡi. Gã từ từ nuốt vô cổ để thấy hơi men dâng trào ngọt lịm và
đắm-say.
Chai rượu đã vơi một
nửa, đứng trơ-vơ, lạnh-lẽo trên bàn. Giữa đêm Trung-Thu cô-quạnh
thế này thì buồn thật ! Bạn bè đâu hết rồi ? Mấy tên ở khu đông VN
tụ-tập chắc đang thèm-thuồng, nhớ lại tuổi thơ khi nhìn bầy
nhi-đồng xúm xít thi lồng đèn rồi đi rước đèn . Phải mần bài thơ
buồn mới được !
“Trời đất ơi ! Chút xíu
nữa xỉn đi là quên mất. Bây giờ gã mới nhớ trong túi áo còn bài
thơ mới nhận được hồi chiều của thi, nhạc-sĩ Nghiêu-Minh từ bên
D.C gửi cho ! “ Gã vừa lẩm-bẩm reo lên rồi vô nhà lấy thêm giấy,
viết và cây đèn xài ngoài trời ra.
Bài thơ thật thích-hợp
cho kẻ lưu-cư đã lớn tuổi, sống gửi qúa lâu nơi xứ lạ, quê người
như gã, cứ lẩm ca, lẩm-cẩm , ra vào không biết xoay sở ra sao cho
xong cuộc đời buồn phiền, tẻ-nhạt còn lại :
Tết Trung-Thu
Cho Kẻ Lưu-Cư
Sáng thức dậy đi tới
đi lui
Cầm chung trà để lên để
xuống
Nhìn ra sân lẩn tha lẩn
thẩn
Nghe chim hót không
buồn không vui
Lấy thơ cũ đọc đi đọc
lại
Nhìn mỗi hình nhớ xóm
nhớ nhà
Nghe phân ưu buồn tê
buồn tái
Như kinh sấm mất bảy
còn ba
Ngồi chiết tính đời lời
đời lỗ
Lời cầu nguyện vô cớ vô
duyên
Khi làm việc hư đường
hư bột
Lúc ngồi không hóa tỉnh
hóa điên
Tết Trung Thu rước đèn
đi ...nhậu
Vợ không la, mình lại
cằn nhằn
Trách vu vơ than năm
đại hạn
Sao tử vi cứ chạy lăng
quăng
Nơi quê người máu lên
máu xuống
Ta nuôi ta đèn đỏ đèn
xanh
Tri thiên mệnh cái vay
cái mượn
Ngồi đuổi ruồi con
trọng con khinh
Nghiêu Minh
“Cám-ơn niên-trưởng
Nghiêu-Minh. Nhờ bài thơ của huynh Tết Trung-Thu năm nay của mình
mới được trọn vẹn, chứ không thì chỉ có rượu vào rồi lăn ra say
thôi.” Gã lẩm-bẩm trong miệng và quơ cây viết để ngoáy vài hàng “
tai-họa “ lại :
Bài họa :
Tớ mộng du lạng-quạng
tới lui
Nhìn đồng-hồ thẫn-thờ lên xuống
Trong mơ-màng lơ-ngơ lẩn-thẩn
Như mất hồn buồn nhiều
hơn vui
Video cũ lục ra coi lại
Thấy núi sông sầu nhớ
quê nhà
Lòng dâng lên nỗi sầu
quan-tái
Xót thương mình lặn-lội
phong-ba
Rồi âu-lo sắp kề miệng lỗ
Trách thân mình lẩm-cẩm
vô-duyên
Ngày tuổi trẻ qúa nhiều
bồng-bột
Lúc về già ngớ-ngẩn
khùng điên
Tết Trung-Thu hết tiền đi . . . nhậu
Ghi sổ hoài bà xã
cằn-nhằn
Thẻ tín-dụng đem cà :
hết hạn
Chán mớ đời thùng rác tớ quăng !
Thầy bói nói : đời ta sẽ xuống
Xấu tướng và mặt bủng,
da xanh
Già sáu bó vẫn còn vay
mượn
Khốn-nạn nghèo bè bạn
nó khinh
Rót thêm rượu ra . Ồ… ,
chỉ còn nửa ly. Gã thong-thả nhâm-nhi những giọt rượu ngọt nồng
cuối cùng để lòng lâng lâng, sảng khoái . Gió thổi nhẹ, một đám
mây kéo tới, vắt-vẻo chắn ngang vầng trăng. Không-gian từ từ
hờ-hững tối lại. Gã lả người, rũ xuống mặt bàn, thiếp đi trong
cảm-giác nhẹ-nhàng, mơ-hồ, êm-ái của đêm Trung-Thu.
nvd.Q67