-Trang Thơ chữ Hán có phiên âm tiếng Việt và các bài dịch của giáo sư Nguyễn Khánh Do, Nguyễn Khuê và anh Phan Nhật Tân QGNT68
Cảm hoài [Thuật hoài] 感懷【述懷】 • Nỗi lòng [Kể nỗi lòng]
Thế sự du du nại lão hà !
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma !
Bản dịch của Thầy Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do:
Thế sự ngổn ngang tuổi luống rồi,
Đất trời thu lại hát say thôi,
Anh hùng nuốt đắng khi tàn vận,
Đồ điếu nên công lúc gặp thời.
Giúp chúa rắp tâm nâng trái đất,
Rửa binh khôn lối kéo sông trời.
Quốc thù chưa báo đầu mau bạc,
Bao độ gươm mài bóng nguyệt soi.
Hạ Tri Chương
Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao thôi.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn: “Khách tùng hà xứ lai ?”
Thầy Nguyễn Khuê dịch:
Thuở nhỏ ra đi, trở lại già,
Giọng quê chẳng đổi, tóc sương pha.
Trẻ con trông thấy không quen biết,
Cười hỏi: “Khách người ở chốn xa ?”
Vương Hàn
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?
Thầy Nguyễn Khuê dịch:
Bài hát Lương Châu
Rượu bồ đào, chén dạ quang,
Chưa vơi, trên ngựa tiếng đàn giục đi.
Say nằm bãi cát cười chi,
Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về.
Lý Bạch
Sáng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Thầy Nguyễn Khuê dịch:
Ánh trăng chiếu trước giường,
Ngỡ mặt đất mờ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Ba bài trên trích từ Hán Văn Tân Khoá Bản của Nguyễn Khuê)
Các tác phẩm của Thầy Nguyễn Khuê, cựu GS Việt Văn QGNT:
- Tâm trạng Tương An quận vương qua thi ca của ông (1970)
- Nghị luận văn chương (1972)
- Tự học Hán văn (1973, tái bản 1995)
- Chân dung Hồ Biểu Chánh (1974, tái bản 1998)
- Gia Định qua thơ văn xưa (1987)
- Những vấn đề cơ bản của chữ Nôm (1987)
- Từ điển Hán - Việt (1991)
- Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập (1997)
- Hương Trời Xa Bay (Thơ, 1998)*
- Nguyễn Trãi toàn tập tân biên (Soạn chung, 1999 và 2000)
- Cõi Trăm Năm (Thơ, 2002)**
- Ba mươi năm cầm bút (2004)
- Sơ lược và ảnh hưởng của Chư tổ Thiền Thái Tông (2005)
- Trăm Năm Là Cuộc Lãng Du (Thơ, 2005)***
*Biết đời như mây bay
Sao mãi nhặt cho đầy
Ra đời hai tay trắng,
Lìa đời trắng hai taỵ
**Mây bay nước chảy hững hờ,
Đá mòn rêu bám bên bờ thời gian.
Trăm năm là cõi hợp tan,
Chuyện đời dâu biển phiếm bàn mà chơi.
***Đời muôn màu muôn vẻ,
Nhiều điều chưa nói ra
Ai người sau tri kỷ,
Xin nói tiếp thay ta.
Tài liệu trên đây do Thầy Nguyễn Văn Xiêm, cựu GS Anh Văn QGNT và ĐHVK Saigon, cung cấp.
Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hoả liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thăng trâm.
Anh Phan Nhật Tân dịch
Ngắm Xuân
Núi sông còn, nước mất
Thành xuân cây cỏ xanh
Nhớ mùa hoa nhỏ lệ
Hờn xa chim bỏ cành
Ba tháng trời im gió
Ngàn vàng đổi thư xanh
Tóc bạc càng thưa thớt
Cài trâm giữ chẳng đành
Pnt
Ký phu
Phu thú biên quan, thiếp tại Ngô,
Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu.
Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ:
“Hàn đáo quân biên, y đáo vô?”
Dịch nghĩa
Chồng đi thú ở nơi biên ải, thiếp ở đất Ngô
Gió may thổi thiếp (lạnh), thiếp lo cho chồng
Mỗi một dòng thư là ngìn dòng nước mắt
“Rét đến bên chàng, áo có đến không?”
Chồng biên ải, thiếp đất Ngô,
Gió Tây thổi thiếp, thiếp lo cho chồng.
Thư một dòng, lệ nghìn dòng,
Bên chàng lạnh đến, áo cùng đến không?
Bản dịch: Thầy Nguyễn Khuê