
(Trang Nhà Gia Đình Quốc Gia Nghĩa Tử xin chân thành cảm ơn giáo sư Đỗ Trọng Hoà (Nhật Bản) đã gởi cho các bài viết của thầy Huỳnh Thanh Hải, cùng là giáo sư trường Trung học Kỹ Thuật QGNT. Các bài viết ký nhiều tên tác giả, nhưng theo thầy Hoà, chỉ là một thầy Huỳnh Thanh Hải.)
VỤN VẶT TÂM TÌNH...

Đã từ lâu, tôi vẫn vướng mắc mấy câu hỏi như sau:
- Đâu là tính cách đặc trưng của những người học ngành kỹ thuật?
- Người học kỹ thuật có những ưu, nhược điểm nào nổi bật?
- Tình cảm của người kỹ thuật đối với thầy xưa, bạn cũ, với kỷ niệm thời đi học có đặc điểm gì?
Đặt vấn đề này ra, quả thật là khó lý giải một cách rốt ráo, tường tận mọi lẽ được. Nên cần có sự quan tâm, góp sức của nhiều người về đề tài thú vị này, mới có cơ sáng tỏ được.
Vì lẽ đó, trong phạm vi nói chuyện tâm tình, tôi chỉ xin thử phác thảo đôi nét có tính đặc trưng, theo chủ quan cảm nhận của mình. Thử xem:
Về hình thái tác phong:
- Vẻ mặt trầm tĩnh, chân phương.
- Ăn mặc giản dị, tác phong nghiêm túc.
- Nói năng từ tốn, chừng mực, hơi co thủ.
- Lời nói chân thực, đi thẳng vào vấn đề, không màu mè, rào đón.
- Động tác nhanh gọn, chuẩn xác.
Về tính cách
- Phản ứng nhanh, xử lý chậm.
- Phân tích giỏi, biện luận dở.
- Là người sống rất nguyên tắc, hơi bảo thủ, kém linh hoạt.
- Với công việc rất kỹ tính, có trách nhiệm.
- Với vợ con rất khó tính, đôi khi quá đáng.
- Với bạn bè lại dễ tính, rộng lượng, nên thường bị chê là:”khôn nhà dại chợ”.
- Là người cả tin nên dễ mắc lừa, nhất là lừa tình.
- Dễ nổi nóng khi thấy máy móc, xe cộ bị vận hành sai, hoặc thấy người nhà sử dụng thiết bị trong nhà sai...vì là người thấu rõ “nỗi đau” của từng chi tiết máy.
- Giàu hay nghèo gì nhà cửa cũng rất ngăn nắp, trật tự. Kỹ thuật xếp đặt hợp lý nhưng thiếu tính nghệ thuật.
- Ra đường chạy xe đúng luật. Lại còn biết điều tiết tốc độ cho ít hao xăng, cho máy lâu mòn.
- Là người xài cái gì cũng bền bỉ, lâu mòn, lâu hư, mà có hư rồi cũng không chịu bỏ, vì đã trở thành kỷ niệm gắn bó, vả lại còn để đó sửa lại....xài nữa.
- Nói chung là người làm cái gì cũng muốn đạt hiệu quả tối đa
- Từ những điều kiện tối thiểu.

Hình Ban giám hiệu trường Trung học Kỹ Thuật QGNT Saigon.
-Từ trái qua : Thày Đỗ Trọng Hoà trưởng xưởng Điện tử, Thầy Trần Khắc Lượng Tổng giám xưởng,Thầy Nguyễn Hàn Tý bộ Cựu Chiến Binh, hai nhân viên Toà Đại sứ Ý đại lợi, thầy hiệu trưởng Đặng Trần Dư, Thầy Đỗ Đại Thanh Vân giám học và Thầy Phan Tấn Chữ giáo sư điện tử.
Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ thấy đó là một mẫu người rất...khó ưa. Nếu ai đã lỡ...ưa rồi ráng mà chịu.
- Còn một tính cách nữa, mà một anh bạn đã nửa đùa, nửa thật nói ” Dân Kỹ Thuật mình ít người...sợ vợ hơn giới khác ?” Dẫn chứng coi? Anh bạn vỗ ngực “ như ta đây, như thằng A, thằng B kìa...và như ông thầy VQT ở trường N.T.T. năm xưa, không sợ cả vợ Việt lẫn vợ Mỹ.” Dù là dân kỹ thuật chính thống, tôi cũng không dám nhận là mình có được cái tính cách quá ư “ hào hùng “ và có phần mạo hiểm ấy. Bởi tôi thuộc về đám đông thầm lặng còn lại.
Theo nhà Phật thì thói quen lâu ngày tích hợp thành tính cách, rồi huấn tập chuyển hóa thành NGHIỆP.
- Nếu vậy thì anh em kỹ thuật mình, ít nhiều gì cũng là những người có cùng chung nghiệp dĩ, với cái đặc trưng chung của nó. Sự khác biệt còn lại giữa các cá nhân như: cao – thấp, giàu – nghèo, hạnh phúc hay đau khổ ....là sự pha trộn chiếm ưu thế từ nhiều nguồn phúc – nghiệp khác của cá nhân ấy.
- Trường kỹ thuật đã rèn luyện chúng ta những kỹ năng thao tác đến độ thuần thục. Nắm vững kiến thức công nghệ. Rồi tính kỷ luật, trật tự, ngăn nắp, rồi sự cẩn trọng, chuẩn xác....Rồi những công tác tập thể và cả hình phạt tập thể....Rất nhiều cái đã thấm nhuần, hằn xâu trong ta. Theo năm tháng, ta trưởng thành....Cái tính cách của chúng ta bây giờ là QUẢ đã thành, từ hạt giống NHÂN đã nẩy mầm ở trường kỹ thuật, có phải không?

Nếu nhìn nhận chúng ta có nhiều đặc tính giống nhau, thì đó chính là thuộc tính của một nhóm, một giới, một tập hợp cộng nghiệp; có ái lực thu hút nhau, theo quy luật “ Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu “. Và chúng ta cũng cùng chung nhiều kỷ niệm dưới mái trường kỹ thuật. Từ chung chỗ ngồi, lớp học. Cùng chung một thầy dạy. Ấn tượng nhất là thầy dạy nghề – với khoảng 16 – 24 g/tuần thực hành ở xưởng. Bàn tay ta đã lần lượt nắm chặt một chỗ, trên tay quay ê.tô, tay quay điều khiển các loại máy móc, thiết bị...Đến độ, qua năm tháng nó mòn nhẵn đi....
- Là đồng môn, chung lối ra vào cổng trường...Chung nhiều thứ quá...Bây giờ thứ nào cũng là nỗi nhớ trong ta.
- Vậy thì, hà cớ gì chúng ta lại cách xa nhau, chỉ vì một vài khác biệt nhỏ mọn? Chúng ta nay đã bị trở thành người già thật sự – trước khi các giấc mơ xưa được trở thành sự thật. Xin nhớ lời của TCSƠN : “ Cuộc đời đó, có bao lâu mà hững hờ “.
Tôi đã đi dự hầu hết các cuộc họp mặt hàng năm của trường B.K.T.C Phú Thọ. Ngôi trường mà tôi rất tự hào là mình đã mang dấu ấn sâu đậm của nó, trong suốt cuộc đời. Dù về sau có học ở vài nơi khác, cũng chỉ là làm sáng tỏ hơn dấu ấn đó mà thôi. Đến dự họp mặt, được gặp lại thầy xưa, bạn cũ, lớp trước, lớp sau....Tôi đã được gặp lại tôi, trong quá khứ tưởng đã quá xa mờ...Thật là một niềm hạnh phúc đầm ấm, thiết tha khó tả. Và cũng rất ngậm ngùi khi nhìn hàng ghế của quý thầy mỗi năm thưa vắng. Rồi những gương mặt già mà tươi rói của lớp đàn anh, mới hôm nào tay bắt mặt mừng...vậy mà nay cũng đã lần lượt ra đi...Người xưa đâu ?
Lần đầu ghé vào công ty về bơm cao áp ( Đại lý bơm Bosh, máy Diesel ) của anh NKN, tôi có ấn tượng rất đậm nét về cách sắp đặt...Dù mặt bằng hơi chật hẹp, nhưng mọi thứ đều được bố trí rất thích đáng, gọn gàng, tươm tất và sạch sẽ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ nói lên tính cách của một người kỹ thuật – đúng như tiếng tăm nghiêm túc của anh.
Có người Kỹ thuật mắc bệnh yêu nghề khá ngộ – như ông GĐ một ngành cônh nghiệp lớn nọ, đang ngồi xe đi đường bỗng kêu tài xế dừng lại, chạy xuống lượm cho ông con bù loong bên vệ đường. Cầm con bù loong còn sáng mới trên tay, ông ngắm nghía và lẩm bẩm “ coi còn ngon quá “, rồi bỏ túi. Người đời sẽ cho là ông này bị hâm. Nhưng người đã học kỹ thuật thì không lạ, vì đôi khi mình cũng “ hâm “ như vậy.

Nhìn con bù loong vô tri, vậy mà gợi cho ta nhớ lại mớ kiến thức hồi đi học đủ thứ chuyện. Nào là hệ Metric hay hệ Inch, góc đỉnh 60 hay 55 độ. Rôi lực kéo đứt, lực xoắn thế nào. Chất liệu kim loại là Thép hạng nào....Rôi những giờ học kỹ thuật Họa, gò lưng vẽ con bù loong với đủ hình chiếu ba chiều, với các thông số kèm thao...Vì vậy, làm sao mà không “ thấy thương “ con bù loong cho được.

Tôi mong có dịp được bắt tay bác sỹ Trần Đông A, người đã vang danh với ca mổ tách rời cặp song sinh Việt – Đức, để tỏ lòng mến mộ và cả tò mò nữa. Vì được biết trước khi vào ngành Y, ông đã trải qua thời trung học Kỹ thuật ở trường CT. Chắc chắn là đã trải qua nhiều giờ thực hành nghề nguội – là nghề cơ bản trước khi học qua các nghề khác. Đây chính là nghề thực tập, rèn luyện sự chính xác và tinh xảo của đôi tay kỹ thuật cơ khí, đã được ông sử dụng bao nhiêu phần trăm để trở thành bàn tay vàng trong phẫu thuật NHI – ngòai cái kiến thức và kinh nghiệm cũng bằng vàng của ông ( ? ). Chưa được ông xác nhận, nhưng tôi tin là sự ảnh hưởng này không hề nhỏ.
Nhớ có lần vào khoảng 1980, tình cờ ghé vào gian nhà lá đơn sơ bên bờ kinh, ở vùng Đồng Tháp Mười, tôi giật mình khi nhìn thấy một bảng gỗ lớn, treo trên vách lá. Trên đó móc đúng thứ tự các loại cờ-lê, búa, kềm, mỏ lết...Gặp gia chủ, thì ra anh là dân kỹ thuật, học trên tôi vài lớp. Thuộc loại “ anh hùng lỡ vận “ nên về quê cắm câu. Nào ngờ trổ tài sửa máy được bà con ái mộ quá, nên lần hồi sống cũng được.
Chỉ tấm bảng móc dụng cụ, anh cười gượng :” Dù gì, giấy rách cũng giữ lất lề...Với lại đã là thói quen rồi, không làm vậy coi không được .”
Bữa đó, tôi ở lại với anh – bên mâm rượu, cùng say sưa nhắc nhở những kỷ niệm thời học trường kỹ thuật. Giống như câu chuyện “ Mối tình Quốc văn giáo khoa thư “ của nhà văn Sơn Nam.
Chuyện học trò nhớ ơn thầy trên thế gian xưa nay đều có. Nhiều mẫu chuyện đẹp đến nao lòng...Đâu chỉ có mỗi ông Carnot trong Quốc văn giáo khoa thư năm xưa. Cái thâm tình này ở người học trò kỹ thuật cũng có nét gì đó hơi riêng – nhất là đối với vị thày dạy nghề; đã cầm tay chỉ việc, uốn nắn từng động tác cho mình.
Lối truyền thụ này rất ấn tượng và cũng phát sinh nhiều tình huống thành kỷ niệm sâu đậm. Nó giống với tình sư đệ trong võ thuật, nó bàng bạc một khí chất mã thượng anh hùng.
Từ xưa, tôi đã có nhiều dịp chứng kiến những người học trò cũ đến thăm thầy – Là ba tôi, vốn là thầy dạy nghề cả đời ở trường N.T.T. Tôi nhớ mãi hình ảnh các anh khóa 1 ban K.N.S., lớp học trò mà ba tôi thường nhắc tới...Về cung cách, tấm lòng của các anh đối với thày của mình...Có người như anh H.V.Thắm – thường xuyên đến thăm thày suốt từ khi ra trường, cho đến lúc đã nghỉ hưu. Tôi nhớ nụ cười và ánh mắt của các anh, khi gặp thày đều thoát ra cái vẻ an vui, trìu mến từ đáy lòng. Sự rung động này có sức mạnh lan tỏa thành niềm vui cho cả nhà tôi khi ấy. Đến lượt tôi, nối tổ nghiệp – Cũng may mắn được đón nhận những hạnh phúc tương tự...
Tôi đã nghe và nhớ mãi, về đám tang của một vị thày dạy nghề; có người học trò cũ là một vị tướng đã đến, cùng chung tay với bạn đồng môn vác quan tài của thầy mình đưa lên xe tang.
Tình nghĩa thầy trò là đạo lý của một nền minh triết lớn. Nó đã âm thầm tuôn chảy một mạch xuyên suốt tự bao đời. Nó bình dị, tự nhiên mà ẩn chứa một truyền thống thiêng liêng của dân tộc, như câu thơ xưa : “ Quân bất kiến Hoàng hồ chi thủy ?, Thiên thượng lai bôn lưu đáo hải – bất phục hồi “ – Anh không thấy nước sông Hoàng hà đó sao ? Nó đến từ trời cao, tuôn chảy về biển cả và không bao giờ trở lại.

Trong kho tàng pháp lý đồ sộ của nhà Phật, tôi rất sợ cái “ Sở tri chướng “ , tức cái tri thức mà mình sở hữu chính là chướng ngại, khiến mình không nhận biết điều gì khác, ngoài cái đã biết. Đó là thế giới quan và nhân sinh quan của một con ếch ngồi đáy giếng. Càng đáng sợ hơn nữa, khi hội đủ cơ duyên – là mùa mưa đến, đưa con ếch lên miệng giếng. Trước thực tại nhãn tiền là bầu trời mới bao la, con ếch vẫn không nhận ra ( vì chưa thích nghi với những mối tương tác mới ? ) nên nó phủ nhận, bào chữa, để được dễ chịu với cái định kiến đã quen và bị lệ thuộc : bầu trời là miệng giếng.
-Trong tình trạng này, con ếch là nạn nhân của chính nó. Bởi vậy Einstein mới nói “ phá vỡ một định kiến còn khó hơn phá vỡ một nguyên tử .”
May thay, người làm khoa học kỹ thuật coi trọng thực nghiệm, thực chứng...thì ít có khả năng vướng vào loại ma chướng nói trên.
Khi càng đi vào tuổi già ta càng khó chịu, muốn từ chối mọi thứ đang và sắp diễn ra ( liệu có được không ? ) Ta có khuynh hướng tìm cách an trú trong hoài niệm về quá khứ; nhất là loại quá khứ mà ta ưa thích. Liệu pháp “ hoài niệm “ này tuy dễ chịu, thỏa mãn được cái tôi trong ta....Nhưng xem ra không ổn chút nào....
Sao ta không thử làm theo Triết gia Heidegger : “ Hãy nhìn sự vật như sự vật. “ – Hoặc theo thiền sư Thích Nhất Hạnh : “ Xin cảm nhận ngay tại đây; ngay bây giờ “?
Tháng 5 – 2012
Huỳnh Thanh Hải


Năm ấy, đã vào khoảng sau hai mươi ba tháng chạp...chúng tôi nhận được mảnh giấy con với vỏn vẹn mấy dòng: Nó lại về phá rẫy, mau lên cho kịp! Chín Nhàn"
Thế là chúng tôi hấp tấp lên đường. Súng đạn và trang cụ săn bắn lúc nào cũng sẵn sàng, chỉ chờ có dịp là đi ngay. Bởi vì "Nó" là một thách thức lớn đối với chúng tôi.
Bọn tôi gồm 3 tay súng, đèo nhau trên hai chiếc honda. Một chiếc chất đầy trang cụ săn bắn và lương khô, có cả một chai rượu thuốc "Châu Công Bách Tuế" để ngừa sơn lâm chướng khí nữa.
Cả bọn rời thành phố từ tờ mờ sáng, nhắm hướng Phương Lâm trực chỉ. Lần này vì gấp quá, không kịp mời Ông Chín Công là một bậc thầy lão luyện về săn bắn. Ở tuổi 65 ông vẫn còn vững tay súng để hạ những con thú dữ. Nhưng mà có lẽ "Nó" cũng chưa đáng mặt để phải vời bậc Thầy "Thượng Sơn".
Trong nghề săn bắn, chủ yếu là kinh nghiệm đường rừng, thông thạo tập tính riêng của từng loại thú, có những kỹ thuật của "Trinh sát" để tiếp cận được con mồi, sau đó mới cần đến sự chính xác của đường đạn...Tất cả tay săn có bản lĩnh đều phải nắm vững điều này, ngoài cái vốn to gan lớn mặt sẵn cỡ. Anh Năm Sung là người kế vị Ông Chín nên dẫn đầu trong chuyến đi này. Người thứ hai là anh Mười và tôi là người nhỏ nhất trong bọn...
Từ SàiGòn đi Dalat, tới cây số 125 là chỗ Phương Lâm, đi tiếp khoảng 5 cây số nữa có một xóm nhà ven đường, nơi dừng chân của chúng tôi là nhà ông Chín Nhàn...Theo lệ kiêng dè ở xứ rừng, không ai nói thẳng ra "Nó" là cái gì, nhưng ai cũng ngầm hiểu "Nó" là con heo rừng hung tợn nhất ở đây. Thành tích của nó đã đáng mặt bậc thầy của đồng loại.
Mùa nắng năm nay một tổ kiểm lâm đang đi tuần giữa trưa, bỗng nghe cây rừng xào xạc, mò đến nói mới hết hồn thấy con heo to lớn với răng nanh cong vút,đang lăn lưng vào gốc cây chai để tẩm nhựa chai lên da,vì bị bọ chét cắn ngứa..Họ dương súng lên vừa đúng lúc nó nhận ra mùi lạ và vụt chạy. Súng nổ làm nó bị thương để lại vết máu kéo dài..Tổ Kiểm Lâm không dám đuổi theo, vì ai cũng biết đó là lúc cực kỳ nguy hiểm.
Vì bản năng tự vệ của nó rất hung hãn, từ trong bụi rậm nó sẽ lao ra tấn công người săn đuổi trong chớp mắt. Chuyện đường rừng còn lưu truyền về những cái chết thê thảm trong trường hợp này. May mà hôm đó họ còn bắn hú họa thêm mấy phát nữa. Cũng có trường hợp vừa nổ súng bắn trật, khói chưa tan đã thấy nó lao tới kề tận mặt. Vì vậy đã thành nguyên tắc với thợ săn thú dữ: Vừa nổ súng phải lách mình dời chỗ ngay.
Lần thoát chết thứ hai của nó còn oanh liệt hơn nữa...Mùa mưa vừa rồi, trên đường xuống rẫy, nó đã dính "bẫy treo" của anh "Ba con đực". Một chân trước của nó mắc vào thòng lọng, bị dây rút lên cao. Dây bẫy treo là một sợi dây cáp thép, đường kính 6 ly, chịu sức kéo tới 500 ký, do tôi gởi lên cho anh...Vậy mà, nó vẫn đu người lên cắn đứt te tua! Dễ nể thật, nhưng cũng còn kém thành tích của một con heo khác...
Hồi đó trên vùng rừng Mã Đà, Bà Rá,vùng đất đã sản sinh ra câu " Mã Đà sơn cước anh hùng tận!", có một con heo rừng cũng bị dính bẫy treo lơ lửng, nhưng với một chân sau mắc vào thòng lọng. Sáng ra thăm bẫy, người ta chỉ thấy một khúc chân heo nát bấy ở đầu khuỷu đang treo tòn teng trên đây, máu đầy dưới đất...Thì ra nó đã cố cong mình lên nhưng miệng không với tới sợi dây, mới đành cắn đứt lìa chân để thoát hiểm. Quả là một khúc hùng ca đầy bi tráng của loài heo rừng!
Cơm trưa xong, chúng tôi cũng mấy bạn rẫy "Hành Quân" ngay. Theo đường mòn, phải lội sâu vào hướng chân núi khoảng 10 cây số kể từ đường nhựa. Hai bên đường chen lẫn rẫy cà phê xanh ngắt. Dưới chân núi là vùng rẫy trồng đủ loại hoa màu. Bên kia núi đã giáp giới tỉnh Thuận Hải. Đây là nơi tiếp giáp giữa nương rẫy và rừng núi bạt ngàn, là vùng thực phẩm trù phú hấp dẫn muôn thú.Thỉnh thoảng vẫn có Gấu, Sơn Dương, Nai...là loại sống trên thâm sơn xuống kiếm ăn trở bữa. Còn Heo, Mễn, Chồn, Khỉ..thì là khách thường xuyên, không mời vẫn cứ tới.
Qua một con suối là đã tới nơi, chúng tôi dừng chân nhào xuống trầm mình cho khỏe rồi mới về trại rẫy của ông Chín nhàn. Trại nầy khá rộng, cất giữa rẫy bắp. Trên trần là giàn gỗ thưa làm nơi cất trữ bắp giống. Ngày thì nấu nướng, tối lại đốt củi un khói lên..vừa sưởi ấm, xua muỗi, lại sấy bắp luôn, nhất cử tam tứ tiện.
Anh "Ba con đực" xách súng ra sau nổ liền hai phát báo hiệu. Lát sau dân giữ rẫy chung quanh lục tục kéo tới...Rất bất ngờ là có ông" Y' Lênh, người Thượng gốc cò ho xách theo một con kỳ đà cỡ 2 ký, vừa bẫy được trên triền núi, thế là liền mở ra một trận nhậu sốt dẻo với kỳ đà nướng chấm muối ớt ngon bùi hơn hẳn thịt gà! Riêng anh Nam Sung nhất định không ăn vì sợ chưa chi kỳ đà cản mũi.
Cuộc nhậu còn là cuộc họp mặt "Mặt Trận" để bàn phương án "tác chiến" cho chúng tôi. Theo các nguồn tin thì nó về rẫy suốt một tuần liền, khi chỗ này lúc chỗ nọ cách nhau mấy cây số. Nhưng hai đêm qua chẳng hiểu vì sao lại lặn mất. Càng nghe nhiều về hành tung xuất quỷ nhập thần của nó chúng tôi càng hoang mang. Có điều dễ hiểu là dân giữ rẫy ban đêm...thỉnh thoảng cứ đánh kẻng, rọi đèn tứ phía, nên nó đã kỵ ánh đèn, không thể đội đèn đi lùng được. Anh Năm Sung nãy giờ lặng nghe và nhíu mày suy nghĩ. Riêng Anh Mười thi "nổ" một hơi dòn dã: " Bà con yên tâm đi, đã có Mười này thì sẽ không còn có nó. Trước khi đi tui đã dặn bà xã là đi chợ tết hãy khoan mua thịt....!" Đêm đó chúng tôi nằm nhà dưỡng sức, đón gió nhìn trăng để ước lượng cho bối cảnh đêm sau. Bà con giữ rẫy cũng được căn dặn là đêm nầy cứ ngủ say, đừng khua động gì cả.
Sáng sớm đã được tin là nó vẫn không về, nhưng có một bầy heo lứa đã trở lại rẫy đầu của anh ba. Chúng tôi ra ngay hiện trường còn nham nhở vết tích. Anh Mười nổ quỳ xuống xem xét kỹ các vết chân rồi khẳng định ngay bầy heo có 5 con. Tôi hỏi đùa:" Mấy đực, mấy cái?" thì anh ngần ngừ, chưa dám ..."Nổ Tiếp". Chúng tôi truy lùng kha vật vã theo vết chân thì dò được hướng của bầy heo xuống từ núi. Theo tới chân núi, mọi người giật mình khi phát hiện ra một vạt đất cao dẫm đầy dấu chân heo lớn hơn cả. Anh Ba đặt mấy ngón tay vào một dấu rõ nhất rồi quả quyết "Nó đấy rồi”, chỗ này rất xa chỗ nó dính bảy lần trước. Lòng tôi bỗng hồi hộp kỳ lạ với cái cảm giác đêm qua nó đã tới đây rồi...chợt dừng lại. Phải chăng nó đã biết tất cả?
Nghiên cứu kỹ địa thế, chúng tôi chọn lấy rẫy đậu phọng của anh Ba làm trận địa phục kích. Ngày hôm đó dân rẫy góp sức gom nhiều đống củi lớn, đặt cách khoảng 100 mét chạy dài suốt bìa khu rẫy, chỉ chừa trống 200 mét ở khoảng luồng đi của nó dẫn vào rẫy đậu. Trên khoảng này lại đào sẵn ba hố nằm cách đều nhau, có phủ cây lá ngụy trang, có cắm cọc giới hạn khẩu độ quay súng để tránh bắn lần nhau.
Đêm xuống, chúng tôi ra vị trí mai phục từ bảy giờ tối. Anh Năm Sung nằm hố giữa làm tay súng chính, thủ khẩu carbine M.1 với hộp đạn đã cưa đầu chữ thập. Anh Mười và tôi nắm hai bìa, mỗi người một khẩu hai nòng calip 12, lắp sẵn đạn săn thú lớn. Tất cả hướng nòng vào trong rẫy. Anh "Bà con Đực" và vài người nữa lo đốt cháy các đống củi, rồi về mấy chòi canh rẫy treo đèn lên. Suốt một tuyến dài dọc chân núi là các đốm lửa bập bùng, chỉ riêng chỗ này thì màn đêm dầy đặc...âm thầm chứa ba đôi mắt háo hức...
Đêm nặng nề trôi, chúng tôi căng mắt chờ đợi, tai cũng căng ra, lắng nghe từng hơi thở của núi rừng, mãi cho đến lúc ..trời rạng sáng. Cả bọn lặng lẽ ra về, âm thầm nghe hơi thở của chính mình nặng nề trong lồng ngực. Tôi mỉm cười với ý nghĩ hình như...trí khôn của loài người còn kém loại thú trong trường hợp này Sau khi ngủ lấy sức, thức dậy, cả bọn lại đau như heo đá khi nghe tin: Đêm qua nó đã về. Không biết bằng ngã nào mà lòn sâu vào rẫy bắp, ngay sau rẫy đậu của Anh ba, chỉ cách chỗ chúng tôi khoảng 300 mét.
Ông Chí Nhàn lắc đầu ngao ngán: "Không lẽ nó đằng vân như Trư Bát Giới ?" Lạ là lần này nó đi đơn độc. Hay là ..hai đêm qua nó cũng đang "trinh sát" chúng tôi, đang tìm cách "Phục kích" lại ? Trận này quả là "Kỳ Phùng địch thủ đây". Sau khi bàn bạc kỹ, chúng tôi kiên trì giữ vững trận địa. Anh em giữ rẫy lại vất vả đi gom những đống củi mới...
Trời vừa sụp tối cả bọn lại mò ra chỗ cũ. Ai cũng sôi gan trong lòng nên chẳng nói tiếng nào. Sắp xếp chỗ nằm xong, tôi dương súng ngắm thử mọi góc độ..Hai chấm son dạ quang bôi ở đỉnh đầu ruồi và khe chiếu môn vẫn nhận được khá rõ. Từ chỗ nằm, tôi thấy rõ những ngọn cây đậu đang lao xao trong gió, in đậm nét trên nền trời. Tôi yên tâm chờ đợi, tỉnh người hẳn trong cơn gió lạnh của núi rừng. Sương đã xuống ướt trên nòng súng. Trăng hạ tuần cuối năm vẫn còn lững lờ sau triền núi, tỏa ánh sáng mờ mờ ma quái.
Đã hơn mười giờ đêm mà nó vẫn biệt tăm. Chợt thèm một điếu thuốc, nhưng cả bọn đều bỏ thuốc ở nhà vì ngán tài thính hơi của nó, đành mở bi đông ngớp một ngụm trà đậm. Tôi nghiêng tai trên nền đất để lắng nghe hết mọi tiếng vọng từ thâm u, nổi bật nhất vẫn là tiếng thác trên nguồn rì rào bất tận...Chợt từ phía chân núi vẳng đưa mấy tiếng "lắc rắc" của cành khô, tôi nín thở lắng nghe...Tiếp theo nghe rõ dần là tiếng "rào..rào" ngắt nhịp rồi ngừng hẳn. Bất ngờ, từ khoảng tối giữa tôi và đám than đỏ ửng đằng kia bật lên mấy tiếng khịt mạnh, rồi tiếng "lịch bịch" nặng nề liên tiếp vang dài theo cánh trái, tiến vào trong rẫy, chen lẫn nhiều tiếng nhẹ hơn lào xào cây cỏ...
Chắc chắn là nó đến rồi, nhưng tôi vẫn chưa kịp thấy gì, vì đám mì đằng xa đang chận mất một góc nền trời thì mọi tiếng động lại im bặt. Trong màn đêm tôi biết nó đang rướn cổ đánh hơi, nghe ngóng động tịnh, nên càng nép mình nín lặng theo. Loại heo rừng là vậy, hễ con đầu đàn đang chạy chợt dừng lại là cả đàn làm theo. Đang nhai rào rào một lúc, nó sẽ chợt dừng cả đàn để lại đánh hơi nghe ngóng, rồi mới ăn tiếp. Tiếng lịch bịch lại vang lên rất rõ. Trên nền trời bóng từng con heo đang chạy lúp xúp ngang qua trước mặt tôi, hướng về giữa rẫy...Chợt hiện lên dáng một con heo to lớn đang đứng gục gạc cái đầu, như làm hiệu cho phép bầy heo tự do tung hoành. Bụng nó cao hơn cả ngọn cây đậu, vạch thành một đường cong vạm vỡ rõ nét. Tôi đưa mắt vào khe nhắm...Đỉnh đầu ruồi đã đặt ngay tại nó. Không gian như đông đặc! Vừa lúc ngón tay tôi sắp bóp cò thì nó vụt mình phóng vào giữa rẫy. Tiếc hùi hụi...Tôi đành đưa súng hướng theo một con khác, rồi hồi hộp chờ đợi.
Bỗng "Rầm,Rầm,Rầm!" Ba phát nổ gần như liên tiếp, phát thứ ba chậm hơn một chút đó tôi bóp cò. Bầy heo đực phóng lên, phóng ào ào tán loạn. Tiếng chân gấp rút tiếng en éc hoảng hốt kéo dài và mất biết phía chân núi. Ba đầu đèn như bật sáng cùng một lúc, quét lia lịa khắp rẫy, rồi cũng hướng về về một chỗ, cách Anh Năm hơn 30 mét: Nó đang nằm lật ngang một đống. Cả ba ghìm súng tiến lên, đến nơi cũng vừa lúc nó húc mạnh một cái rồi bất động. Xem xét kỹ thấy nó bị trúng sau mang tại một vết, đó phát đầu tiên của Anh Năm, phát thứ hai của Anh Mười là bốn lỗ đạn gặm trên nách nó. Thì ra cả hai người đều ngắm kỹ trong lúc nó đứng yên nghe ngóng và gần như bóp có cùng lúc. Nhờ vậy nó mới chịu nằm ngay tại chỗ.
Cả bọn lại rọi tìm "Phát thứ ba". Kia rồi...một con heo nhỏ khoảng 20 kỳ đang nằm sẩy chân, đầu quay về núi. Từ chỗ trúng đạn của tôi, nó chạy thêm mấy chục mét nữa mới chịu nằm lại sa trường. Chung quanh rẫy đã láng nháng ánh đèn và tiếng người í ới. Mọi người nghe tiếng súng nó là kéo ra ngay, thì ra họ cũng nằm thao thức mong chờ kết quả. Đến nơi ai cũng giật mình trước một con heo rừng lớn hiếm thấy. Nó dài có hơn một thước nặng không dưới 80 ký, heo nhà tương đương không thể nặng bằng heo rừng. Lông gáy trên lưng nó màu nâu sẫm, đâm ra tua tủa trên lớp da chai dày cộm. Đặc biệt là cặp nanh dài một tấc, chìa ra cong vút coi dữ dằn làm sao. Với cặp răng nanh này thì đến cọp cũng phải kiêng dè nó....Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm,lòng rộn rằng trước niềm vui của mọi người.

Sáng hôm sau, nó đã được đưa về tận nhà ông Chín Nhàn. Cả xóm bu đông nghẹt, ai cũng muốn tận mắt nhìn thấy nó, cho thỏa lòng căm tức, rồi lại nhìn chúng tôi như những .."Hiệp Sĩ.." trong cổ tích! Khỏi phải nói, anh "Mười Nổ" và Anh " Ba con Đực" là hai người tường thuật tại chiến trường sôi nổi nhất!
Ngay buổi chiều, công việc ngã thịt hai con heo đã xong. Đến tối, cả xóm rẫy tổ chức liên hoan với chung tôi bằng một trận nhậu tàn canh khói lửa. Một nồi cháo lòng tổ chảng với những miếng ngon nhất dành cho chúng tôi.
Ông Chín Nhàn trịnh trọng nâng cái đĩa đựng cặp răng nanh quý hiếm, trao cho anh Năm Sung, như một nghi thức theo truyền thống xứ rừng dành cho thợ săn. Anh Năm giữ một chiếc, còn một chiếc tặng cho ông Chín để kỷ niệm với xóm rẫy.
Năm đó chúng tôi vui một cái tết rất hả hê...
Tháng Chạp Năm 1994
Huỳnh Lão




Thêm hai bài của Giáo Sư Huỳnh Thanh Hải do Lê Bình Định KT thực hiện, xin bấm vào hai links bên dưới:
TRÙNG PHÙNG HỘI NGỘ NHẤT ĐỘ CẢM HOÀI - HUỲNH THANH HẢI
MÓN NGON DÂN DÃ CÁ LÓC NƯỚNG TRUI - HUỲNH THANH HẢỈ
Trích Giai Phẩm Xuân Kỹ Thuật 1973:




